Chủ Nhật, 6 tháng 5, 2012

Truyện Huyên Bí Việt Nam-6_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 6 trong tổng số 6

Nàng Áo Xanh



Triệu Nguyên là một thư sinh, tánh thích giang hồ. Chàng thường ở tạm rày đây mai đó, ít khi người ta thấy bóng chàng hơn một tháng nơi nào.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Nhờ tài đàn hát với chiếc đàn cầm mang theo mình, Triệu Nguyên luôn dư dật để sống một cuộc đời làm bạn với bút nghiên.

Một hôm, sau hai ngày rong ruổi theo đường độc lộ, Triệu Nguyên đặt chân đến đất Tây Hồ. Chàng dựng một chiếc lều cỏ bên khúc lộ xa làng gần nửa dặm để tạm trú. Từ đó, những buổi sớm, mấy cô gái bán bưng, hoặc mấy kẻ bộ hành, có việc sang ngang đấy, đều dừng lại đôi phút, ngơ ngẩn nhìn vào chiếc lều cỏ, nghe giọng ngâm thơ trong trẻo của chàng thư sinh.

Một buổi chiều kia, Triệu Nguyên bỗng nhiên nẩy hứng làm được một bài thơ tuyệt tác. Chàng lấy làm thích chí cất tiếng ngâm vang trong lều.

Ðang lúc ấy, chợt nghe ngoài cửa có tiếng động, chàng vội ngoảnh mặt nhìn ra: bên ngoài, theo kẹt, Nguyên thấy có một đôi mắt đẹp, núp sau cánh cửa nhìn chàng. Và khi biết đã bại lộ, kẻ có đôi mắt ấy thẹn thùng bước tháo ra phía ngoài.

Bị chạm vào tánh tò mò, Triệu Nguyên ném vội quyển vở, lật đật chạy ra mở tung cánh cửa để nhìn theo: chàng thấy một thiếu nữ mặt áo xanh, dáng người tuyệt đẹp, đang bước hối hả, và khuất sau lũy tre xanh ở một ngõ quẹo.

Sau lúc nhìn ngắm mê mẩn, Triệu Nguyên thẩn thờ bước vào lều. Tự đấy sớm chiều chàng cứ ngẩn ngơ nhìn ra đường để trông chờ và hy vọng được tái gặp người đẹp, không còn thiết gì thư cầm nữa.

Nhưng, bẵng đi như thế đến năm hôm, bóng người thiếu nữ áo xanh thoáng qua trong mộng, như không muốn trở lại với chàng nữa. Triệu Nguyên buồn rầu, mất ăn mất ngủ, chàng tính vài hôm nữa sẽ bỏ lều đi nơi khác.

Trong lúc đang tràn trề thất vọng, thì đột nhiên, người thiếu nữ áo xanh lại sang ngang đấy: mừng rỡ Nguyên vội vàng chạy đón, ngỏ lòng mình cho nàng biết. Chàng vẫn ngỡ sẽ bị nàng vì thẹn mà giả bộ cự tuyệt, hoặc phải qua nhiều nỗi khó khăn. Song trái lại, Nguyên vừa ngỏ đôi lời, nàng ấy liền thuận tình, theo chàng về lều.

Sáng hôm sau, qua một đêm âu yếm trong chăn gối với Nguyên, nàng liền về nhà và xế chiều lại đến.

Cứ thế mãi, có nhiều khi Nguyên hỏi đến tên họ nhà cửa của nàng. Nhưng, mỗi lần chàng dợm hỏi, thiếu nữ mặt lộ vẻ buồn và lảng sang chuyện khác. Riết rồi chàng cũng bỏ qua, độ chừng nàng là nàng hầu hoặc vợ lẽ của một viên quan già về hưu, vì chàng vẫn thấy nàng thường theo phía một biệt thự hướng Tây mà đến.

Có một đêm kia trời đổ xuống một trận mưa rất to, thiếu nữ gọi cửa vào lều, áo quần ướt lếch thếch. Triệu Nguyên lấy làm lạ vì thấy trái với mọi hôm, đêm nay nàng không mặc áo xanh nữa mà lại mặc một bộ đồ trắng. Chàng hỏi:

- Trời mưa em không lạnh sao mà vẫn đến?

Nàng đáp rằng:

- Lạnh nhưng em vẫn đến để trọn lời hứa với chàng.

Triệu Nguyên lại cất tiếng hỏi:

- Nhưng sao em lại không mặc áo xanh, mà lại mặc áo trắng và sao vẻ mặt em buồn thế?

Nàng khóc sướt mước khẽ đáp:

- Chàng hỏi làm chi, đấy là chuyện riêng của em, không nên cho chàng biết.

Triệu Nguyên tò mò gạn hỏi nàng.

Thiếu nữ lại càng khóc nhiều hơn nữa, như mưa như gió; và đúng khuya, nàng liền từ giã ra về.

Triệu Nguyên quá lạ lùng trước cử chỉ ấy, chàng để nàng đi một chốc, liền giả bộ khép cửa ngủ, rồi lẻn theo.

Như sự tiên đoán của chàng, thiếu nữ đến một biệt thự, sau khi vào nàng cài khóa cửa ngoài lại cẩn thận. Triệu Nguyên không thể vào theo được đành trở về.

Sáng hôm sau chàng hỏi mấy người quanh vùng, người ta cho chàng biết: đó là biệt thự của một ông quan già đã về hưu, nhưng bây giờ ông đã chết từ lâu, và vì không có con cháu nên cái biệt thự ấy phải bỏ hoang vắng lâu ngày. Giờ đây nơi biệt thự ấy rất nhiều yêu quái.

Triệu Nguyên đâm nghi ngờ; nhưng sau cùng chàng dằn lòng, quyết nội đêm nay sẽ lẻn theo thiếu nữ lần nữa, để vào cho được trong biệt thự hầu tìm tông tích nàng.

Ðêm hôm ấy như thường lệ thiếu nữ lại đến. Nàng vẫn mặc bộ đồ toàn trắng.

... Như đêm hôm trước, sau giờ âu yếm cùng Nguyên, khuya đêm ấy thiếu nữ lại từ giã chàng để ra về.

Triệu Nguyên lại lẻn theo nàng và chàng vào được trong biệt thự. Thiếu nữ đi trước thoắt cái đã lẩn đâu mất trong bóng tối. Chàng đành lầm lũi bước liền theo bực gạch, và đẩy khẻ cánh cửa bằng sắt tiến vào trong.

Trong đêm dầy, chàng thư sinh vẫn lặng lẽ thận trọng bước. Tiếng muỗi kêu u u dìm thêm vào cõi huyền bí của biệt thự. Bỗng, Nguyên nghe như có tiếng ai thì thầm nơi gian phòng trong. Chàng liền theo phía ấy lần vào, chắc rằng chàng sẽ gặp nàng áo xanh. Nhưng, có tiếng thét ghê rợn bên tai chàng, và hai cái bóng người tóm lấy cổ chàng quăng xuống một cái ao sâu hoắm...

Triệu Nguyên đang lúc hoang mang bỗng thấy như mình từ từ bốc lên cao, cao mãi đến trên mây. Chàng thấy quanh mình chàng, những thiếu nữ yêu kiều xúm bên múa hát và kìa... lạ chưa, có cả nàng áo xanh, người yêu của chàng. Triệu Nguyên mừng rỡ ôm chầm lấy nàng trong mưa lệ.

Ðang lúc ấy, mọi sự vật sụp cả xuống, chàng và thiếu nữ ngã xuống cõi sâu.

Triệu Nguyên kêu lên một tiếng, tỉnh giấc. Bên mình chàng, thiếu nữ cũng đã tỉnh. Sau một cơn mơ, trên khóe mắt hai người còn đầy lệ.

Nguyên kinh hãi hỏi nàng:

- Em! Em là người hay là ma, hỡi em? Cho anh biết!...

Nàng đáp:

- Là người hay ma em cũng nào có hại anh mà anh phải sợ!

Và như sợ Triệu Nguyên sẽ kinh hãi vì nàng không phải là người, thiếu nữ mới bắt đầu kể đoạn lịch sử của nàng:

- Em là con của một lương gia, nhà ở Lâm An. Từ bé em có tánh thích văn chương thi phú, và được nổi tiếng là cao cờ khắp quận. Vì có chút nhan sắc, nên đến năm mười lăm tuổi, em phải bị tuyển vào làm tì thiếp trong dinh của một quan già về hưu, làm chức Bình Chương, tên Thu Thác.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Hằng ngày phải khép nép sống trong khuôn khổ của luật pháp, để làm những cuộc vui cho một kẻ đã già đầu bạc hơn cả tuổi cha mẹ, em lấy làm tủi nhục cho cuộc đời trong trắng của tuổi xuân. Và, đôi khi, vài hình ảnh của các bạn thiếu nữ thi vị bên ngoài, lọt vào mắt em, làm em luôn mơ tưởng, thèm khát một mối tình êm đẹp... Một cảnh tượng đôi mái đầu xanh âu yếm sống bên nhau dưới mái chòi lá, chia xẻ cho nhau những hương vị cay ngọt của cõi đời, luôn ám ảnh tâm hồn em.

Một hôm, em được biết quan Bình Chương Thu Thác có nuôi trong dinh một tên hầu trà còn trẻ độ ba mươi tuổi. Hắn tên Triều Sinh. Thế là từ đấy chúng em yêu nhau thầm kín.

Sau những buổi hầu trà, đợi cho vắng mặt quan Bình Chương, chàng Triều Sinh thường đưa em vào khu vườn kín phía sau dinh để cùng nhau bày tỏ tâm sự.

Rồi một chiều kia, mối tình mặn nồng giữa chúng em bỗng lọt vào đôi mắt đỏ ngầu sắc máu vì ghen của lão quan già.

Ðêm hôm ấy, một đêm đầy mưa bão. Vừng trăng, nhờ mây tránh rọi trên cầu Tây Hồ một màu ghê rợn; lão Thu Thác gọi hẳn người tâm phúc trói chúng em lại mang lên cầu. Sau giờ điên cuồn sỉ vả, lão ta truyền cho người tâm phúc kết liễu đời chúng em và đạp chúng em xuống đáy hồ. Thế là từ đấy, mỗi đêm chúng em hiện lên mặt hồ ôm nhau than khóc...

Thời gian qua... Triều Sinh thấm thoát đến ngày phải đầu thai về dương thế. Còn em vì nợ duyên chưa dứt, nên hồn đành vất vưởng trên mặt hồ, theo những chuỗi ngày buồn thảm...

Nàng khóc ròng sau khi kể xong mẩu chuyện thương tâm.

Triệu Nguyên cảm động trước nỗi lòng của người yêu, chàng không còn sợ hãi khi biết nàng là ma nhưng vẫn có tính chất như người dương thế.

Chàng an ủi nàng và hỏi:

Thế hôm em mặc đồ trắng đến với anh vào giữa đêm mưa gió mà có vẻ mặt em buồn rầu, phải chăng vì em nhớ lại đêm đau đớn trên cầu Tây Hồ?

Nghe câu hỏi của Nguyên, nàng lại khóc thảm thiết và chỉ khẽ lắc đầu.

Triệu Nguyên năn nỉ:

- Anh có thể nào làm cho mất sự bi thảm của em không? Em hãy tỏ cho anh được biết với!

Và như đoán chừng được nguyên do nỗi buồn của nàng, Nguyên ôm nàng vào lòng bảo:

- Thôi, từ đây em đừng trở về cái hồ của biệt thự Thu Thác nữa. Em hãy ở chung cùng anh, chúng ta sẽ sống trong hạnh phúc!

Bắt đầu từ đó, trong lều cỏ, bóng Triệu Nguyên và nàng áo xanh sum họp trọn ngày bên nhau. Luôn luôn, khách đi ngang thường nghe ngoài giọng ngâm thơ của gã thư sinh thường ngày, lại có tiếng quay tơ của nàng áo xanh nghe kẽo cà kẽo kẹt, làm thành một âm thanh ấm áp vui vẻ...

Chiều hôm nay trời đổ cơn mưa. Từng lằn chớp vạch sáng những góc trời đen kịt vì mây phủ. Vài thân cây trước cửa lều của Nguyên bị sét đánh, gãy khúc ngã chắn ngang con lộ.

Nàng áo xanh lại buồn bã, mặt đầm đìa những nước mắt. Triệu Nguyên thương hại người yêu quá. Chàng ôm nàng vào lòng, vuốt vài sợi tóc lòa xòa trên tráng nàng gạn hỏi:

- Sao mấy hôm nay em cứ dàu dàu mãi thế?

Nàng khóc to và đáp:

Hôm nay em phải thú thật cùng anh, chẳng như những lần trước nữa... Nhưng em sợ anh buồn lắm anh à! ....... Anh! Trong chốc nữa đây, em sẽ từ giã anh để đi đầu thai nơi khác!

Nguyên ôm chặt nàng sợ hãi nói:

Không! Không em à, em hãy ở đây đừng đi đâu cả! Ðừng đi đâu nghe em!!!

Nàng đáp:

Không được, vì số âm cung đã định rồi, dẫu chàng có giữ em lại cũng vô ích. Trong bấy lâu em khóc, chỉ vì nghĩ đến phút phải xa chàng...!

Triệu Nguyên đau đớn nhìn nàng hỏi:

Trong bao lâu nữa em sẽ đi?

Nàng áo xanh thở dài đáp:

Giờ Tý, nhưng cũng sắp đến rồi!

Một tiếng sét nổ đánh ầm và tiếp theo một làn chớp lóe sáng trước cánh cửa trước.

Triệu Nguyên hốt hoảng nhìn ra, đến chừng nhìn lại nàng áo xanh đã tan thành mây khói từ lúc nào.

Nàng áo xanh đi mất. Thế rồi vài hôm sau, Triệu Nguyên cũng mất bóng. Trên Tây Hồ chừa lại chiếc lều cỏ bỏ hoang bên đường độc lộ...

Người biết mẩu chuyện trên đây ai ai cũng nghĩ rằng có thể chàng đã tìm nơi chết theo nàng thiếu nữ áo xanh, chớ có ai ngờ... Triệu Nguyên hiện đang sống trong một ngôi chùa. Chiều chiều chàng ngồi lần chuỗi hạt lắng nghe hồi chuông thu ngân dài trong gió để trút bản đàn lòng...

Hết


anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Truyện Huyên Bí Việt Nam-5_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 5 trong tổng số 6

Ðẻ Lạ


Ở Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên, có một người đàn bà có chửa được bảy, tám tháng, mắc bệnh mà chết. Nhà chồng chị ta nghèo quá, vợ chết không có tiền để làm đám tang cho chị, không có tiền mua quan tài chôn cất chị nên chỉ vùi lấp cái xác chị qua loa ở ngoài thành. Vì hổ thẹn nên anh ta không báo tin cho ai biết là chị đã thác.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Trong làng có một bà lão vốn quen biết chị hồi lúc trước, mở một cái quán bán chè nước vặt, cách mả chị ta khoảng một tầm mắt. Mấy ngày sau, bỗng thấy chị ta đem tiền đến mua bánh đường mang đi. Bà lão lấy làm lạ, nhìn dõi theo. Ðến mả, chị ta thoắt biến mất. Cứ như thế mấy ngày liền nên bà lão đã hỏi mua bánh để làm gì? Chị ta đáp:

- Mới đẻ không có sữa, con khóc không chịu được, phải đi mua bánh về mớm cho nó.

Bà vội tìm đến nhà gặp chồng chị và vội kể lại chuyện chị mua bánh về mớm con. Khi nghe xong anh nói:

- Không thể được. Có thể bà đã nhìn lầm người rồi chăng? Bà liền trả lời:

Tuy tôi già hơi lẩm cẩm thiệt nhưng tôi đâu có hoa mắt đến nổi nhìn lầm người với lại tôi đây cũng quen biết với chị... Nếu anh không tin ngày mai đến mà xem.

Ngày hôm sau, anh chồng đến núp ở đằng sau cái quán theo dõi thực hư như thế nào.

Khoảng trưa, quả nhiên chị ta tới quán. Chồng vội ló ra hỏi, chị ta không đáp, té chạy, loáng mắt đã biến mất. Anh chồng chạy đến tận mả, nghe bên trong văng vẳng có tiếng trẻ khóc. Ðào mả lên thì thấy một đứa bé trai nhỏ, nhau thai vẫn còn lòng thòng, đang nằm sấp trên bụng mẹ, quằn quại khóc. Mồm nó hãy còn dính những vụn bánh. Mọi người đều lo sợ cho nó là từ thay ma đẻ ra, nên mọi người đều tránh không ai dám lại gần. Người cha đem đứa bé về nuôi nấng bằng hồ cháo.

Ðứa bé sau này không khác gì những đứa bé bình thường khác.

Vũ Trinh

Làng


Cách chân đèo Phước Tượng hai cấy số và ở giữa phá Cầu Hai có một chồng đá xám mọc lên thật cao. Trên chồng đá ấy có cái am vôi trơ trọi đứng một mình. Mặt am nhìn về phía núi Tùy Vân và cách đó ba cây số là cửa biển Tư Hiền. Lưng am chênh chếch xoay về dãy Trường Sơn và hòn Bạch Mã đỉnh cao chất ngất, ở phía ấy chân núi bò ra tận phá chuỗi thẳng mình trong bầu nước rộng mênh mông.

Am không có vẻ hoang phế, nhưng cũng không được vẻ chăm sóc lắm. Trong am đếm được hơn ba trăm bát lư hương vừa sành vừa gỗ. Am xây theo kiểu rất cổ, mái vồng và chân mạnh. Chắc đã bị bão táp nhiều phen nhưng mặt vôi nhiều nơi còn nguyên láng. Tìm niên hiệu thì mới biết am được dựng lên năm Hoàng Ðịnh nguyên niên (tức là về đời vua Lê Kính Tông, đầu thế kỷ 16). Hỏi người sống trong làng mạc hai bên phá thì họ bảo là Am Kẻ Chài. Nhưng người chài lưới thì nhắc đến tên kính cẩn hơn: Am Cô Giang.

Dưới đây là câu chuyện do một cụ già Trường Sơn kể lại:

“Theo ông bà tôi thì am dựng đã lâu, lâu lắm. Hồi ấy Huế chưa có kinh đô và vua còn ở đâu ngoài Bắc. Phá Cầu Hai lấy tên là Trựng Tô do người Chàm đặt. Hai bên bờ phá không có xóm làng không người ở. Nhưng chính giữa phá đã có lớp người dựng lên làng mạc hẳn hoi. Quanh năm họ sống về nghề chài lưới. Họ là người của nhiều làng, nhiều nước tới đây sinh sống. Nghe đâu có cả người Trung Quốc và dân Chiêm Thành. Họ gặp nhau trong cảnh làm ăn hay trên đường lưu lạc. Rồi từ đó quen biết đến thân yêu vì vậy họ đã lập ra một làng sống với nhau trên mặt nước. Làng ấy là một khoảng phá lan dài trên tám dặm nước. Họ toàn là những kẻ tha hương ở với nhau lâu ngày, tình liên hệ trở nên đậm đà và thân thiết.

Làng ấy không có tên và chỉ lấy chữ “Làng” vỏn vẹn. Nhưng dân chài lưới lại hiểu một cách sâu xa thắm thía vì hễ ai nhắc đến tên Làng là lòng họ đã thấy nhớ nao nao.

Dân trong làng thường hay đi làm ăn phương xa, nhất là vào đầu mùa thu. Thời đó nước nguồn đổ xuống nhiều cho nên ở đâu có nước ở đó là nhà. Người chài lưới đã quen sống lênh đênh nên không biết ngại ngùng trên những dòng nước lạ. Họ cắm thuyền bất cứ đâu. Ðời họ đã quen với phá rộng, với sông dài. Cách giao tiếp dễ dàng như con về quê mẹ.

Năm tôi hai mươi tuổi thì Làng được trên hai trăm dân. Hàng năm vào tháng Bảy tôi đã chèo đi về phía Thuận An. Cuối năm nào tôi cũng gắng về Làng rất đều đặn vì đêm ba mươi Tết dân làng có tục lệ hội họp chung quanh am. Xa cách liên tục mấy tháng nên đêm hôm ấy họ nhao nhao hỏi nhau rối rít. Và hàng năm chỉ đêm hôm ấy họ mới biết số dân làng đã thêm bớt được bao nhiêu.

Cuộc họp mặt ấy rất vui vẻ. Họ thả lưới cầu may vào khoảng ba giờ sáng. Sợ nhất là bắt được lươi và chình vì họ cho đó là điềm rủi. Trong lưới được bao nhiêu tôm cá họ đều đổi cho nhau cả. Tục lệ trao đổi ấy cũng giống như quà biếu đầu năm vậy nhưng ở đây vui hơn vì không ai phải mất tiền mua quà cả.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Buổi chài lưới đầu năm họ chia cho nhau chứ nhất định không bán. Các chợ Tết ở làng mạc phố phường vì thế không có cá tôm cho nên dân Làng xem đó là một sự hãnh diện tự chủ của đời sống bềnh bồng trên mặt phá mênh mông.

Cuối năm Thìn tức năm Thành Thái lục niên, tôi đang ở đấy cho vui nhưng khoên hiểu tại sao chiều hai mươi tám Tết tôi tự nhiên thấy bồn chồn một cách kỳ lạ. Tôi nghĩ chắc có chuyện chi không may xảy ra. Vào buổi chiều, tôi nhất định chèo thuyền về Làng từ phá Tam Giang đến Cầu Hai cách nhau ngót trăm cây số. Tôi phải chèo suốt ngày đêm. Lúc nào nấu ăn thì tìm bờ cắm thuyền lại.

Dọc phá tôi mới sực nhớ năm nay đến phiên tôi “hương khói Am Cô giang và tôi tự bảo có lẽ vì thế nên “ông bà” bắt mình nóng lòng nóng ruột.

Am Cô Giang là nơi dân làng đến gửi hương nhà trước khi đi làm ăn xa. Người có mặt sẽ cúng thay người vắng mặt. Và cứ hàng năm Làng cử một người đến am cúng bái trong ba ngày Tết.

Chiều ba mươi lúc mặt trời sắp tắt, thuyền tôi đã đến đầu làng Mỹ Lợi. Tôi nhắm chừng chân đèo Phước Tượng chèo tới mãi. Nhưng càng đến gần sương mù càng sa xuống nặng như khói thuốc dày đặc từ mặt nước bốc lên không. Mặt phá vì thế trông mông lung không biết đâu là bờ bến. Xa xa đèo Phước Tượng như trôi dập dìu trong ngàn mây trắng.

Ðến Am Cô Giang vào khoảng mười một giờ khuya, tôi nhận thấy chung quanh am không có bóng thuyền nào cả, lúc đó tôi nghĩ rằng có thuyền dân lẫn trong sương mù dầy đặt nên khó mà thấy được.

Khí lạnh bắt đầu bao vây cả người tôi. Tôi mặc thêm cái áo đen dài nữa. Cắm thuyền xong tôi liền bước chân lên một tảng đá lớn. Nước lấp lánh trong khe đá như thủy tinh. Sau một làn sóng dội, nước trong mấy lạch đá cùng một lần hòa nhịp phập phồng theo . Tôi chúm chân lấy thăng bằng rồi đi thẳng vào am. Ðứng trên tảng đá cao tôi đưa mắt nhình mông lung ra xa nhưng tôi cũng không nhìn thấy một bóng thuyền nào cả.

Sương xuống dày quá làm tôi run cả người. Quanh tôi trời nước mênh mang, xa xa dãy núi Trường Sơn phủ đầy mây đã như một ngọn sóng thần tung bọt đổ xô về phía tôi. Tôi tự thấy mình nhỏ nhoi quá con thuyền trước mắt mình không hơn gì một ngọn lá tre. Tôi sợ quá muốn kêu lên một tiếng thật lớn nhưng tôi vẫn không dám.

Ngay lúc ấy ở triền núi Bạch Vân tôi thấy có vài ánh đèn của chùa Linh Sơn nổi bật lên trong đám cỏ cây trùng trùng điệp điệp. Tôi nghĩ có lẽ chùa đang cúng giao thừa. Nhìn được ánh đèn xa, lòng tôi cũng thấy bớt sợ.

Muốn đáp lại ánh đèn che chở của nhà chùa tôi liền thắp đèn trong am thật sáng. Khi đèn trong am vừa bật lên, một cảnh đẹp kỳ dị đã phơi ngay trước mặt tôi. Lẫn trong sương mù tôi thấy một đám thuyền Làng đều lên đèn một lượt. Ngọn đèn xao động trông hơi mờ và xanh nhạt. Thuyền của những người dân Làng trôi từ từ nên ánh đèn cứ vậy mà thay đổi mãi. Trong một màn đen dày đặc những ngọn đèn thuyền lấp lánh như những vì sao khuya trông đẹp và huyền bí vô cùng...

Sương mù càng về đêm thì càng sa dầy hơn nữa và tôi bỗng dưng cảm thấy nằng nặng trên hai đôi vai. Khí lạnh như cố ôm riết người tôi làm tôi không cử động được.

Không biết tại sao lúc ấy có cái gì rờn rợn và bắt tôi rùng mình, tôi liền gọi lớn tên mấy người bạn tôi quen và ở đằng xa thoang thoảng có mấy người lao xao đáp lại nhưng tôi không nhận rõ được tiếng ai. Tôi lấy làm lạ là tiếng chuông chùa Linh Sơn tuy nhỏ và xa xôi nhưng tôi vẫn nghe rõ còn tiếng người dân Làng gần đây tôi lại chỉ nghe thoang thoảng thôi. Tôi nghĩ có lẽ dân làng kiêng cữ không cho thuyền mình đến gần sợ sui – như người ta kiêng xông nhà, đặt đất – nên tôi không gọi nữa.

Khoảng vài phút sau tôi bỗng thấy các thuyền Làng bắt đầu chèo quanh am làm tôi nhìn theo chóng cả mặt. Ban đầu ánh đèn còn di chuyển chậm sau đi nhanh và sau cùng đi nhanh quá đến nỗi tôi cảm thấy cả người như đảo lộn. Ðứng không vững tôi liền xuống thuyền nằm và ngủ quên lúc nào không biết.

Sáng dậy bước ra khỏi mui thì trời đã bừng sáng. Sương đã tan và mặt nước tươi xanh như mới nhuộm. Tôi giụt mắt nhìn lại mặt phá thì không thấy thuyền Làng đâu cả. Chưa biết duyên cớ gì tôi đã sợ lạnh cả người vội chèo thuyền đi hỏi mấy làng lân cận thì họ bảo:

- Trận bãi dữ dội ngày mồng hai tháng tám năm Thìn, tất cả thuyền và các dân Làng đã chìm và chết hết!

Nghe xong tôi buồn khóc không ra tiếng. Từ đó tôi cứ chèo thuyền đi làm ăn thật xa không mấy khi trở về Làng nữa ...

Thanh Tịnh
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Truyện Huyên Bí Việt Nam-4_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 4 trong tổng số 6

Trái Tim Con Rắn


Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật nín thở, lắng nghe. Nín thở, nhưng ông vẫn nghe thấy nó đang đập ở đâu đó trong người mình ồn ào, hối hả.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Càng nín thở, tiếng đập nghe càng rền rĩ. Bên cạnh Thuật, Trinh đã ngủ say, vẫn kiểu ngủ nằm sấp "thấy ghét", nhưng hôm nay Thuật đành bất lực nằm nhìn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Vẫn nín thở, Thuật đè chặt bàn tay lên ngực trái.

Lồng ngực ông lặng thinh. Vậy thì cái gì đang đập, nếu không phải là nó, trái tim con rắn mà ông đã nuốt sống hồi chiều?

Lưỡi dao phập xuống, cái đầu con rắn bị đóng đinh xuống mặt thớt nằm lại với hai con mắt trợn trừng. Thân hình vặn vẹo những co giật cuối cùng trong đôi tay của lão nhà bếp, phun những tia máu đỏ tươi xuống chiếc phễu cắm vào cổ chai rượu thuốc. Mũi dao nhọn rạch một đường nhỏ điệu nghệ, và ngón tay thành thạo thọc vào moi ra một quả tim nhỏ bằng ngón tay, còn thoi thóp thở. Nó dường như vẫn còn co bóp, khi đã yên vị trong chiếc ly nhỏ. Người ta đổ rượu thuốc đã trộn đều với máu vào ngập miệng ly. Ðó sẽ là ly rượu bắt đầu cho buổi tiệc, và theo thông lệ, luôn được dành cho nhân vật quan trọng nhất.

Hôm nay, đó là Thuật.

Với Thuật, trái tim rắn ấy phải kể ở đơn vị hàng chục. Ngay từ trái tim đầu tiên được thưởng thức, thường thì mọi người đều cảm thấy cái gì đó nhờn nhợn, nuốt vội cho trôi, thậm chí còn có người từ chối cái quyền .tiên chỉ. (ưu tiên), Thuật đã chứng tỏ sự lì lợm khác người của mình: Ông thò hai ngón tay vào ly rượu, nhón lấy trái tim rắn và cho vào miệng nhai chóp chép ngon lành, rồi mới chiêu cạn ly rượu để đưa tiễn nó vào dạ dày mình. Ðặt ly xuống, Thuật há miệng cười, khoe hàm răng còn lem nhem máụ Hành động đó được tái lập từ trái tim thứu hai trở đi, và đã làm sáng thêm cái danh .chịu chơi. của Thuật.

Nhưng chiều nay...

Thuật đã có cảm giác là lạ lúc kẹp lấy nó ở đáy ly. Dường như nó quẫy nhẹ như muốn tuột khỏi tay ông. Cảm giác chưa từng có ấy thoáng qua rất mau, và Thuật cho rằng có lẽ vì hai độ nhậu dữ dằn ở hai điểm khác kéo dài từ mười giờ sáng cho đến giờ, đã làm ông run tay. Nhưng vừa cho nó vào miệng, thì rõ ràng nó lăn lên lưỡi của ông và tuột vào yếu hầu, rồi dường như dừng lại ở thực quản. Ngay lúc đó, ông đã nghẹn thở mất mấy giây. Ly rượu tống tiễn nó vẫn không làm ông thấy cổ họng mình thông suốt, như có gì cứ nghèn nghẹn trong đó.

- Ủa sao anh Hai không nhai nó? Một tên đàn em vọt miệng hỏi.

Thuật trấn tĩnh rất nhanh, giả lả:

Thôi mày, cho lẹ đặng nhậu cho rồi. Dô đi!

Bữa tiệc hào hứng với đám chiến hữu thân thiết và các em nhân viên mặc quần sọc, áo thun lỗ tận tình phục vụ, đã làm Thuật quên ngay cảm giác khác thường ấy. Cái quán này vốn có biệt tài đó. Vào đến đây, chuyện quốc gia trọng đại gì nữa, người ta cũng quên hết, nói chi đến cái chuyện cỏn con không nhai được tim rắn! Em nào cũng thơm như múi mít, ngồi sát rạt trong vòng tay, nân từng ly bia, đút từng miếng mồi cho mình, còn hai tay mình thì cứ tự do như chưa bao giờ được tự do như vậy. Rồi kết thúc bữa tiệc, anh thích thì em chiều, phòng riêng tại chỗ, có máy lạnh, giường đệm... Hố hố, có thằng chó nào mà chẳng mê tít mắt!

Thuật thường kết thúc hành trình một ngày nhậu của mình tại cái quán hẻo lánh này, chính là vì vậy. Ðể cho đầu óc nó thoải mái, đặng hôm sau mới làm việc tốt được. Chiêu đãi người ta nhân vừa "trúng" lớn, Thuật cũng dẫn lên đây. Mà được trả ơn, Thuật cũng gợi ý đến điểm "vui vẻ" này. Ai theo Thuật đến lần đầu, sau đó thảy đều giơ một ngón tay cái: Ông anh đúng là số một! Ngay chính vợ Thuật, Thuật cũng đã đưa lên đây. Từ lâu bà đã sợ Thuật như sợ cọp, vậy mà gần đây, chịu hết nỗi, dám sinh chuyện cự nự:

Ông đi đâu mà đi hoài, đêm nào cũng một hai giờ sáng mới về? Vừa vừa thôi, ít ra ông cũng phải tôn trọng tôi phần nào chớ! Rồi uy tín làm việc của ông nữa. Cái ghế ông ngồi không phải là muôn đời đâu.

Lúc đó là năm sáu giờ chiều, Thuật ghé về nhà tắm rửa và thay quần áo lịch sự, ngồi chờ một thằng bạn đến kéo đi "tham quan" nhà hàng nổi một lần cho biết. Cú điện thoại hẹn lại giờ chót của thằng bạn, cộng với lời cằn nhằn của vợ con, bất ngờ làm Thuật nổi điên. Ông kéo tay vợ ra xe:

Bà muốn biết tôi thường đi đâu phải không? Ðược rồi xin mời bà đi theo tôi!

Ban đầu, các em thấy Thuật đi với vợ, chỉ dám thập thò sau quầy ngó ra. Thuật ngang nhiên gọi một lúc sáu em ra ngồi cùng bàn, ôm hôn mỗi em một cái ngay trước mặt vợ. Bà chủ quán đi ra, chào Thuật bằng kiểu chào thường lệ; đứng sau lưng, đặt hai bàn tay lên vai Thuật, cúi xuống cọ má với Thuật. Vợ Thuật xanh mét cả mặt mày, muốn ngất xỉu. Thuật rút tiền bo cho mấy em, rồi đuổi hết cả đám đi, xong mới nói với vợ:

Bà thấy chưa, ở đây chúng nó đẹp như vầy, trẻ như vầy còn bà già còm, lép kẹp như vậy, có biết mắc cỡ hay không mà đi ghen với tụi nó? Biết điều thì cứ ngậm miệng, mỗi tháng tôi phát tiền cho dư xài. Tôi còn ở với bà là phúc đức lắm rồi. Lộn xộn tôi dẹp luôn, cho treo mỏ cả lũ. Còn cái ghế tôi ngồi hả? Chắc hay không thì tôi tự biết, nhưng bà ráng mà cúng bái hàng ngày cho nó. Nghe chưa?

Thuật điềm nhiên ngồi ăn cho hết bữa, trong lúc bà vợ chạy ra ngoài vường nôn thốc nôn tháo những miếng ăn vừa nuốt. Lần "giáo dục" kiểu đó đã có hiệu quả thấy rõ. Một tuần sau, vợ Thuật đến cơ quan tìm ông giữa trưa. Cửa phòng giám đốc chỉ đóng chứ không có khóa, vì đố thằng nào dám gnang nhiên bước vào! Thuật và một cô nhân viên đang ôm nhau trên chiếc đi văng dành cho giám đốc nghỉ trưa. Thấy vợ Thuật, cô gái sợ hã toan vùng dậy. Thuật ghì cô ta lại, nói cứ bình tĩnh, không việc gì phải sợ. Rồi ông quay qua đuổi vợ về, mắng vợ là bất lịch sự, vào phòng không biết gõ cửa. Vợ Thuật chỉ nói được một câu: "Rồi trời sẽ tru đất sẽ diệt ông!", rồi run lập cập đi ra. Thuật cười hô hố.

Bữa tiệc vẫn tiến hành náo nhiệt, mới đó mà đã qua thùng bia thứ ba. Hai tay Thuật giang ra ôm hai cô. Miệng Thuật thỉnh htoảng há ra để ực bia, để táp mồi, để cười khùng khục, để quay qua quay lại hôn hít trên mấy cái má hồng mịn màng thơm phức. Cứ mỗi lần đến đây. Thuật lại có cảm giác mình đang làm vua. Có đêm, Thuật kéo luôn năm em vào một phòng, quần nhau cho tới sáng. "Nhất dạ đế vương" cũng sướng đến đó là cùng! Hôm nay là ngày Thuật trúng lớn, vừa đẩy được mấy tấn nguyên liệu còn tốt mà Thuật chạy được quy thành phế liệu, nhậu hết cái nhà hàng này còn được, nói gì đến cái bàn tiệc chục thằng này. Dzô đi, dzô nữa đi! Còn bao nhiêu bia, nhà hàng cứ đem hết ra, cho tụi này tắm bia một bữa nhớ đời! Thằng Thuật này đã từng chi ba triệu cho một bữa tiệc ở đây, bằng lương một tháng của cả văn phòng xí nghiệp cơ mà! Tên kế toán trưởng hơi chợn, nhắc Thuật nên giữ lại một tấn cho bọn công nhân có việc làm, chứ hổm rày chúng nghỉ việc ăn 70 phần trăm lương, kêu trời như bọng rồi! Thuật trợn mắt, nói đồ ngu, ai có phần nấy. Người nào đã chịu nhiều gian khổ, sống chết, thì bây giờ phải được hưởng. Còn số thằng nào mạt thì ráng mà chịu. Ðời này, ai ăn được thì cứ ăn. Ðã chấp nhận cuộc chơi mà còn bày đặt chuyện lương tâm!

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Nỗi lo gợn lên, vào đúng lúc Thuật kê miệng húp chén cháo rắn được em Trinh bưng lên mời. Giữa ngực ông bất chợt nhói một cái đau đến nín thở. Kẹt cả hai tay, Thuật lắc đầu dùng cằm đẩy chén cháo ra. Cái gì mà đau như vậy? Thuật đổ mồ hôi khi cảm nhận dường như nó đang cựa quậy. Nãy giờ, bao nhiêu là bia là mồi tống xuống, vậy mà nó vẫn kẹt lại ở khoảng giữa ngực sao? Thuật bỗng thấy nhợn nhạo trong họng. Ông cố trấn tĩnh, từ từ đứng dậy, gạt hai em, bước ra vườn. Ðến sau một gốc cây khuất, ông đưa mấy ngón tay vào miệng, móc họng cho ói ra hết những gì vừa ăn uống. Ðó là một động tác quen thuộc mỗi khi Thuật muốn hồi phục để có thể ngồi tiếp tục chiến đấu trong những độ nhậu kéo dài. Nhưng lần này không phải do ông thấy mệt, mà là để tống cái của nợ đáng sợ kia.

Hoàn toàn yên tâm, Thuật bước vào bàn nhậu đầy khí thế trở lại. Mọi việc tiếp tục diễn biến bình thường. thuật nói nhỏ vào tai Trinh, tối nay, anh chọn em làm hoàng hậu đó nghe. Trinh giả bộ trợn mắt, rụt vai, lè lưỡi. Cái lưỡi hồng dẻo quẹo đầy hứa hẹn, vậy mà làm Thuật liên tưởng đến cái lưỡi thở phì phì giận dữ của con rắn khi nãy, lúc nó đang bị lão đầu bếp lôi vào trò đùa trước khi chết.

Cái nhói đau thứ hai xảy ra khi Thuật đã nằm trên giường, nhìn Trinh đang uốn éo cởi quần áo dưới ánh đèn hồng. Ông thánh cũng phải chào thua trước thân hình tuyệt mỹ của cô gái được phong làm hoa hậu ở quán này, vậy mà Thuật vẫn nằm yên, tay đè lên ngực. Máy lạnh chạy rì rì mà mồ hôi Thuật vẫn vã ra, ướt cả mặt đệm.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Ðó là lần đầu tiên trong đời, Thuật nghe thấy những âm thanh quái đản ấy. Nó dội lên trên đỉnh đầu, rồi cứ thế bục ra.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Rồi Thuật nhìn xuống bụng, chợt ré lên một tiếng, lồm cồm ngồi dậy. Ông vừa trông thấy đầu con rắn quặc qua quặc lại giữa hai đùi mình. Thuật đưa tay bật đèn nê-ông, lúc đó con rắn biến mất. Ông nhìn quanh quất. Còn Trinh thì co rúm người, nhìn ông bằng con mắt sợ hãi.

Gì vậy anh?

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thuật thở dài, tắt đèn, ôm lấy Trinh:

Không có gì.
Khoảng vài phút sau, Thuật thở dài, xô Trinh ra, nằm vật xuống.

Thôi, hôm nay cho em nghỉ. Ngủ đi.

Trinh nằm xuống bên Thuật, và chỉ vài phút sau, cô đã ngủ ngon lành. Trong khi đó, tiếng đập ồn ào trong ngực Thuật vẫn cứ vang lên đều đặn.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Ở chỗ giữa ngực ông, có cái gì đó chư nhô lên thụt xuống. Thuật úp hai bàn tay đè mạnh lên chỗ đó. Nó vẫn cứ phập phồng dưới tay ông.

Ịch ình, ịch ình, ịch ình...

Thở hổn hể, Thuật ngồi bật dậy, kinh hoàng khi nhìn rất rõ giữa ngực mình nổi hẳn lên một khối u nhỏ. Thật nhanh, Thuật chộp lấy nó, nghiến răng bóp mạnh. Ông cảm thấy như nó đang vỡ ra bên trong lồng ngực mình. Một cảm giác đau chết người ập đến. Thuật lăn ra giường cố gắng lết đến bên Trinh, ông cố gắng vươn tay ra định chạm vào người Trinh để gọi cô dậy nhưng đã kiệt sức...

Sáng hôm sau, Trinh thức dậy thấy Thuật đã chết cứng đơ từ hồi nào. Khi đem xác của Thuật đến bác sĩ pháp y thử nghiệm thì các bác sĩ đều kết luận rằng Thuật chết vì nhồi máu cơ tim (heart attact). Ngực ông bị tím bầm, nổi hằn những vệt móng tay của chính ông cào cấu.

Nhưng khi giải phẫu tử thi, mọi người chứng kiến đều rởn tóc gáy khi thấy ở giữa lồng ngực trái tim của Thuật là một trái tim nhỏ xíu, chỉ bằng đầu ngón tay, đã bị bóp bể ra làm hai.

Nguyễn Ðông Thức
Tháng 5, 1990.
Chuyện Lạ


Vũ Khắc Kiệm quê làng Việt Yên, phủ Ðức Thọ, Hà Tĩnh, đỗ Cử nhân năm 1813. Lúc đầu du học ở Bắc Thành, Kiệm có thuê một căn nhà riêng để trọ. Nhà ấy thường có ma, bấy lâu vẫn đóng cửa, Kiệm không biết mướn. Mới ở được vài hôm, một đêm ông ta đang một mình đọc sách bên đèn, bỗng nghe có tiếng rên rỉ ở trên rường nhà. Ngửa mặt lên thì thấy một người vận võ phục, tay cầm đao đang tự cắt bắp vế của mình, máu chảy ròng ròng xuống đất. Kiệm bảo:

- Người làm gì thế? Có oan uổng gì thì nói, chứ ta đây những loài ma quỷ không thể dọa được.

Người đó mới nhảy xuống, đặt cây đao trên sàn nhà rồi kể rằng:

- Tôi là lính triều Thanh, theo Tổng Ðốc Tôn Sĩ Nghị sang đây, chết ở chỗ này, bị người ta làm nhà lên trên, giày giẫm luôn luôn, di hài không yên mà chẳng biết ngỏ với ai, cho nên thường hiện lên làm sự quái gỡ. Bây giờ ngài biết nỗi oan uổng của tôi, nhờ ngài cứu giúp tôi với!

Kiệm hỏi:

- Di hài ở đâu? Ðể ta nói với chủ nhà đem cất đi cho.

Con quỷ nọ chỉ chỗ, lạy tạ rồi biến mất. Ngày hôm sau, Kiệm nói lại với chủ nhà. Chủ nhà vội sai người đến đào, quả thật có một bộ xương và cây đao. Chủ nhà liền liệm lại đàng hoàng tử tế, rồi đem đến chỗ khác chôn, sau đó nhà ấy mới yên. Kiệm sau này giữ chức Tri Huyện.

Sách Phong Tục (Thần Rượu) có nói: “Thấy quái, mà không lấy làm quái thì quái tự mất”. Ðầu đời Gia Long, Trấn thủ Hải Dương là Nguyễn Văn Ân (quê làng Việt Yên, phủ Ðức Thọ, Hà Tĩnh, đỗ cử nhân năm 1813) phá tháp Ðồ Sơn để lấy gạch làm dinh. Tự nhiên có một vật hình như tấm lụa trắng từ trong tháp bay ra. Ðược hơn một tháng, Nguyễn bỗng dưng bị bệnh. Trong dinh thường hiện ra ma quái. Có khi ban đêm ở trên nóc nhà thấy phảng phất có ánh sáng.

Bọn liêu thuộc ai nấy đều sợ, muốn cầu đảo. Có người đem việc ấy nói với ông, ông không tin. Một đêm ông đang đắp chăn nằm, nghe đằng sau góc nhà có tiếng dế dần dần đi tới giường. Ông lặng thinh thì bỗng có một vật hình như người đè lên mình ông. Ông vội cuốn chăn bọc lấy được. Vật ấy dần dần biến nhỏ lại bằng cánh tay. Ông đánh chết ngay, giở ra xem thì là một con chuột bạch. Lấy lửa đốt đi, từ đó ma quái mới dứt. Và bệnh ông cũng khỏi.

Trương Quốc Dũng
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Truyện Huyên Bí Việt Nam-3_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 3 trong tổng số 6

Người Con Gái Tỉnh Bắc


Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Ðỗ đã ba tháng rồi. Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Ðỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Bà cụ Ðỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thi. Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấy. Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượi. Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà “oan gia”.

Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợi. Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ: “Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gái “đón gió” này.

Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấy.

Thật là tĩnh-mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậy.

Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

Ðêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữa. Gió lùa mát rợi. Tiếng cười nói văng vẳng xa...

Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.

Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửa. Vũ giận mình vô cùng.

Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữa. Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môi. Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

Vũ hoảng hốt nhìn lại. Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh.

Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường.

Nữ lang mỉm cười và nhắc:

- Anh châm thuốc.

Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thu. Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

- Cô, cô đến đây ? Ðêm khuya...

Nữ lang ngắt lời:

- Nhà em ở gần đây. Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lại. Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...

Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

- Xin cảm ơn cô. Nhưng cô là...

Nữ lang mỉm cười:

- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

Vũ hỏi tiếp:

- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

Nàng mỉm cười:

- Anh không nên hỏi nhiều. Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chi. Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra sao. Vậy tốt hơn hết là chúng a cứ vui khi chùng nhau gần gũi.

Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:

- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng hay. Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãi, tôi sẽ tiếng chuyện với cô.

Nữ lang làm ra bộ hờn dỗi. Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những “hình học không gian” những “phân tích hóa học” kia của anh là ghê gớm lắm rồi sao? Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

Vũ sốt ruột:

- Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!

Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay ngoắt đi. Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.

Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽo. Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữa. Ðêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Ðỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nào. Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vào. Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợi.

Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.

Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:

- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phải?

Vũ thẳng lời cự:

- Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lại?

Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:

- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay sao? Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễu.

Vũ lắc đầu:

- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồi. Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngày.

Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.

Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.

Ngọc Bích vùng đứng dậy. Nàng biến sắc, nói:

- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứu. Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.

Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...

Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấy. Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lại.

Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Ðã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổi?

Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên treần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:

- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếu?

Vũ thẳng lời, cự lại:

- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?

Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dài. Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:

- Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

Ngọc Bách hỏi lại:

- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

Vũ cười:

- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhác thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữa.

Nữ lang gật đầu:

- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là ma.

Vũ thản nhiên:

- Tôi cũng đã đoán biết ngay.

Rồi Vũ lại nói:

- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa:

- Sự đời man mác những nỗi oan khiêng nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...

Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đây. Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái “bất tương thân”, nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

Nữ lang bùi ngùi nói:

- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Ðông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậy. Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

Vũ gật gù, tán thưởng:

- Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầu.

Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:

- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồi.

Vũ nghĩa thầm trong bụng:

- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phai.

Nữ lang lại kể tiếp:

- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sua khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nội. Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà này.

Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:

- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lại. Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngói. Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.

Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uốn đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theo. Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngày. Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi xa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

Vũ nói tiếp:

- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!

Ngọc Bách thở dài:

- Rồi ngày tháng trôi qua. Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưa. Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.

Vũ ngắt lời:

- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:

- Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh.... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

Vũ ngắt lời hỏi:

- Bây giờ cô muốn gì?

Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôi. Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...

Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.

Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!

Phạm Cao Cũng
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Truyện Huyên Bí Việt Nam-2_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 2 trong tổng số 6

Cây Chổi Yêu Tinh


Lâu ngày thành yêu, vật nào cũng thế, không những chỉ có vàng và ngọc... Như trong vườn hoang ở một ấp kia có một tòa miếu cổ xây bằng gạch. Ðằng trước có một cửa nhỏ, chỉ vừa một người ra vào, bên trong chỉ rộng bằng một chiếc chiếu. Trên đặt bái hương và một cây đèn bằng gỗ. Mỗi năm có hai lần người trong ấp đến lễ bái thì mở cửa mà vào, quét miếu thắp hương. Xong việc lại ra, đứng bên ngoài khép cửa lại, còn người dưng thì không ai bước tới. Trong miếu có một cái chổi rễ kết bằng những mảnh tre nhỏ. Khi vào cúng bái, dùng để quét, quét xong lại dựng trong góc miếu. Tương truyền là chổi rễ ấy dùng đã lâu ngày mà lúc nào cũng vẫn thấy như mới. Người trong ấp thường thấy có ma hiện ra. Khi ấy có người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp thuê nhà ở gần đó để tiện đến nhà thầy nghe giảng. Ở trọ được ba tháng. Bỗng một đêm khuya thấy người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ ném một bài thơ vào:

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần,

Trên cùng Cơ Vĩ vốn cùng thân. (Hai câu này nói bóng là hình cây chổi)

Thường đem quét tước trần ai sạch,

Muốn kết ái ân Chu với Trần.

Người học trò nhặt bài thơ xem, ngồi im lặng hồi lâu.

Người con gái nhìn vào cửa sổ cười rằng:

- Thế gọi là “văn cùng” đó.

Người học trò thấy cô gái có nhan sắc đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi. Ðến gà gáy, ả vội đứng dậy từ biệt. Người học trò muốn giữ lại, ả nói:

- Thiếp là con gái quan nội triều (chữ triều ở trong là chữ miếu) ở trong ấp này, ở không đã lâu, nhưng tính cha mẹ nghiêm ngặt, quanh năm không cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa ai trông thấy mặt. Vì thế, thiếp chưa có gia thất. Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi qua. Ðã ưa người đẹp, lại mến tài cao. Cho nên chui lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn. Nếu mãi vui, có người biết được, thì không những mang tiếng chê bai, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm nhục cả đến gia thanh, để lo buồn cho cha mẹ, đến phải tự tử mà chết mất. Nếu chàng có lòng yêu thiếp phải nói dối kẻ trên để lén lúc đợi đêm tối sẽ đến, dần dần ta sẽ kết duyên giai lão, như thế có hơn không? Giữ thiếp ở lại làm gì? Nhưng điều này nên giữ kín, nhất thiết không nên nói chuyện này với ai.

Nàng nói xong thì vội vàng ra đi.

Người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ. Ðã hơn một tháng, thầy không thấy anh ta đến học, sai người đến nhà trọ hỏi duyên cớ và bảo anh ta đến gặp thầy. Người học trò thấy thầy gọi, liền đi theo người đến.

Thoạt trông thấy anh, thầy giật mình hỏi rằng:

- Mới qua một tin hoa nở mà nhan sắc xanh xao, tinh thần sút kém đến như vậy. Ngươi mắc bệnh gì thế?

- Thưa, con không bệnh gì.

Thầy nói:

- Không bệnh gì mà hình dung thế kia à? Ðúng là bị gái hư nào làm mê hoặc rồi. Nếu không, can chi vóc người sút hẳn đi như thế?

Người học trò trước còn giấu diếm, sau bị thầy hỏi vặn đến cùng bấy giờ anh mới nói rõ đầu đuôi câu chuyện.

Thầy nghĩ hồi lâu nói:

- Bên nhà ngươi trọ, có cây cổ thụ không? Có đầm sâu hay là có miếu cổ nào không?

Người học trò nói:

- Trong vuờn hoang có ngôi miếu cổ, không biết làm từ đời nào. Cảnh miếu vắng vẻ, cách nhà con trọ độ năm trăm thước, hàng ngày con đi học thường phải qua đó.

Thầy nói:

- Ðứa con gái ấy tất là con yêu trong ngôi miếu cổ. Ngươi không nói sớm, chỉ ba tháng nữa là chết.

Anh ta sợ quá, lạy phục trước giường xin thầy bảo cho phép trừ yêu.

Thầy nói:

- Xem lời lẽ bài thơ, trong lúc vội vàng, chưa có thể đoán được tà yêu. Hãy để xét nghiệm dần dần xem nó là yêu gì mới có thể trừ được. Nói xong thầy lấy một cái khăn vuông lụa đỏ đốt hương thư phù vào mặt khăn, rồi đưa cho anh học trò và dặn rằng:

- Nó đã là yêu thì những câu gì ta nói với ngươi, tất nhiên nó cũng biết. Ðêm nay con yêu đến, nếu nó có hỏi đi hỏi lại, phải kiên quyết nói là không. Nếu nói lộ ra thì kế ta không thể thi hành được, nhà ngươi tất phải chết. Nên làm thơ tự tình gấp hai mọi ngày. Ðợi khi gà gái con yêu sắp dập từ biệt, cầm khăn hồng này tặng nó và nói: “Tình nương, tình nương của ta, có yêu hàn nho không? Có định cùng ta kết làm vợ chồng không? Chúng ta nguyền ước ba sinh, há lại không có một vật gì làm tin ư? Vuông khăn hồng này, khi ta mới sinh, có một ông quan trông ấp mừng cho. Cha mẹ lấy làm quý báu cất kỹ để dành. Nay ta đem tặng này, xin đừng khinh thường. Nàng nên buộc nó vào dây lưng, như vậy thì suốt ngày, như có ta ở bên cạnh. Ðợi khi thành hôn, ta với nàng lau chung với nhau, có sung sướng hơn không? Bảo nó như vậy, nếu con yêu nhận lấy chiếc khăn là phúc cho nhà ngươi:

Anh học trò bỏ khăn vào túi áo, lạy hai lạy rồi ra về.

Ðêm hôm ấy con yêu vừa đến đã hỏi ngay rằng:

- Lang quân! Lang quân! Hôm nay đi đâu thế?

Anh học trò trả lời:

- Không!

Con yêu nói:

- Thiếp ở trong cửa thấy lang quân đi qua. Thiếp đi theo sau đến chỗ cổng nhà thầy, thiếp muốn theo vào, nhưng thấy khí văn bốc lên cao vút, lởm chởm trông rất sợ. Thiếp đứng nấp ngoài cổng để đợi lang quân. Một lát lang quân ra, thiếp lại theo về. Sao lại nói là không đi đâu? Hay là đã có đám nào đấy chăng? Có lẽ đúng. Ngạn ngữ có câu:

"Vợ chồng mới cưới nói ba phần thật,

Chưa thể bày ra cả tấm lòng.”

Câu nói ấy đúng tâm lý lang quân lắm đấy!

Anh học trò nói:

- Cũng là ngày đi học đấy thôi!

Con yêu im lặng, rồi lại vui cười như trước.

Ðến lúc từ biệt, anh ta theo lời thầy, đưa tặng khăn hồng và nói rất thiết tha. Con yêu nhìn khăn hai ba lần, xem mặt trên rồi mặt dưới, tựa hồ có ý sợ hãi, nghĩ ngợi rồi thở dài, nói rằng:

- Ai đưa vật này cho chàng? Ðây là một vật làm cho vợ chồng ta lìa nhau. Không thế thì sao bây giờ mới có, trước kia lại không?

Anh học trò nói thác cớ là cha mẹ vừa mới gửi đến. “Thương nàng, yêu nàng, ta không tặng nàng, thì tặng ai? Ðã khăng khít với nhau như liền khúc ruột, sao nỡ đem lòng ngờ vực như thế?”. Anh ta giả đò giận. Con yêu mới lấy khăn rồi ra về.

Sáng hôm sau thầy đến hỏi chuyện, biết là con yêu mang khăn về rồi, liền bảo anh đi xét trong miếu cổ. Quả nhiên thấy vuông khăn hồng vắt trên cái chổi rễ bằng tre. Thầy trỏ vào cái chổi nói rằng:

- Ðúng là cái chổi này thành yêu.

Thầy bảo đem chổi về đốt, thì nghe trong ngọn lửa có tiếng kêu khóc. Từ đó con yêu chổi không còn đến quấy rầy anh học trò nữa..
Chiều Sương


Vào một buổi chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như dát bạc, cái em ả của cuối ngày thôn dã. Chàng đi và nghĩ đến trăm điều vu vơ, nhưng ý nghĩ thaóng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.

Chàng đi lơ dãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết. Sương bạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.

Cảnh vật, như dưới một đũa tiên màu nhiệm, đã tan biến trong giây phút, chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ của các túp lều tranh. Những bụi xương rồng và giâm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những sợi tơ bạc li ti.

Trời không lạnh lắm, nhưng hơ sương ngấm ào mình: chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa. Những ẩm đọng trên mi, chàng tưởng chừng nước mắt rưng rưng.

Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương bay từng luồn, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.

****

Những tiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lãng đãng. Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi. Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.

Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản chàng hỏi:

- Cố không đi biển à?

- Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.

- Cố kể chuyện đi biển nghe đi.

Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đức cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình thương yêu mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:

- Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện tôi rồi.

- Không... Cố phải kể đi... À, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ gặp ma không?

Lã Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu nhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.

- Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần neo thuyền ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. Ái chà sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫ như con cá to. Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái “nố ta” rồi, hắn muốn trêu mình đây. Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn xóa một cái, xanh lè cả nước biển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên vẹn.

Ðó, tôi chỉ gặp vài lần như vậy thôi. Ðêm khuya lạnh lẽo vắng vẻ, chắc cậu buồn tình, bày chuyện phá mình tí cho vui.

Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êm biển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền. Họ nói: “Thôi mà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?”, thế là cả bọn nhảy ùm xuống bơi đi.

Mồ ma ông cụ Bỉnh khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy tay. Không thấy người đau nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta đáp: “Chào xin với xỏ, được mấy con cá về cho vợ con đây!”. Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã biến mất. Ông ta nạt “Ðồ quỷ, cứ nghịch thôi!” Thế là tiếng cười bật lên ríu rít, lát sau lại thấy nặng rổ.

Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian, tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua đan mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ. Chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng, nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hoà của ông lão! Trong ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ ràng, cõi sống, cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông lạnh lẽo. Tuy đã tìm thấy cái chết trong tai ương bi thảm dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng giận dữ oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm trêu đùa người sống. Và chàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười dòn ríu rít của những cái bóng vô hình, cạnh cây đa già miếu cổ...

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

- Có bao giờ người ta thấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không cố? Chàng trai hỏi.

- Thuyền ma à? ... À ... có một lần, đã lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới thuyền mồ ma ông Phó Nhụy... Ờ, cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố (tránh bão) xong, thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.

Bữa đó thuyền ra lạch...

Sáng hôm ấy, một buổi sáng trời quang mây tạnh. Bình minh chiếu những tia nắng vàng chói trên những dãi mây trắng bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đẩy chèo theo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, lòng không vướng bận ưu phiền, không lo lắng. Nhưng khi thuyền đi ngang qua nha Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi người chưởi rủa chúng ầm ĩ, vì dân chài rất kiêng kỵ bị “ngáng đường” như thế, và ông lái hơi nhăn mặt.

Ra khỏi lạch, thuyền kéo buồm bắt cơn gió Tây Nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơn nặng nề, lừ lừ tiến về phía trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc trắng xóa. Càng xa bờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ còn là những cái dợn sóng nhỏ nhoi nhấp nhô trên mặt nước.

Gió lên lồng lồng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau một vạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặng của thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào và xóa sạch mất. Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn phương của khoảng không rộng mênh mông. Nắng vàng gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, nước biển ngã sang màu lục.

Ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh bỏ neo. Ðoạn người ta nới dây leo cho thuyền trôi tới gần chỗ đã thả bóng ngày hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn được đan thưa thớt, thả lưng chừng nước, ở bên trong lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào. Cạnh bóng người ta còn cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó có một nơi nghỉ ngơi, nên tới ẩn núp xung quanh, có khi từng đàn lớn.

Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong khi thuyền vẫn dướn mái chèo tiến tới. Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại, và hai bác, có thêm người trợ lực, kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào lưới, cựa quậy đành đạch làm lóe những ánh bạc biên biếc. Và con cá nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và trong mà người ta gọi là trứng nước. Bình, hồi ấy còn là một chú trai quèn, túm từng manh lưới hất mạnh cho cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn và man mác mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm cá thu, cá hồng mắt mở trân trân, há miệng một cách tuyệt vọng cố hớp không khí.

Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng. Chú trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm cỗ chỉ vỏn vẹn hai bát cá đầy và một bát muối cạnh mâm, một rá cơm và một sanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy có ngọn, các bác chài thường ăn rất nhanh như chèo đưa cho chóng xong bữa. Chợt một bác kêu lên:

- Nhìn kìa!

Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo cho đàn cá đi qua. Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới. Họ mải mê trong công việc, trong khi trời ngả về chiều. Mặt trời lúc nào cũng còn ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên mà kêu:

- Coi kìa! Trời đổ ráng ngoài.

Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:

- Sắp có bão đến nơi.

Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể nhầm lẫn. Trời đã đột ngột kéo mây đen ngòm cả bốn phía. Ông nhà nghề ra lệnh:

- Kéo lưới lên. Giương buồm!

Chân người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mình trên dây để kéo buồm, miệng “dô hò” lấy nhịp...

Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát. Sóng vùng lên, cuốn réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tung tóe bọt. Con thuyền trào lên ngụp xuống, buồm không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít nghe ghê tai, con thuyền cứ bị sóng đánh trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy hướng, ông Phó Nhụy kêu:

- Mưa đến rồi!

Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch, mặt sóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát thành từng tiếng ào ào. Chưa đầy một giây sau, các bác chài đã ngồi co mành trong tơi chiếu và vuốt mặt không kịp. Một bác trong đám bảo:

- Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.

Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về phía sau, đoạn dây nẩy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc. Sóng đánh như tát vào con thuyền nhỏ cứ trồi lên rồi hụp xuống, nước bắn tung tóe ra tận đến sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền rất khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng cả da.

Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảnh lớn, thuyền dốc đứng tưởng như thế sẽ đâm thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm nhợp vì bị nước đánh đến tối tăm mặt mũi. Không trì hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hết ràng buộc quay mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn cáh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một hòn sắt nặng. Như thế thuyền không bị giằng lại, mà chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.

Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, trồi lên như núi. Mặt người nào người nấy tái mét; tuy có tơi che, quần áo họ cũng ướt mèm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách toạc nhiều nơi. Chú trai, lú nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang, ở luôn dưới đó tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam. Hai bác chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm ít nhồi nước nhưng sóng dễ tràn lên, nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh ông lái người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài, cũng vì vậy mà thuyền nhẹ bớt, nhưng vì thế lại làm mồi cho gió, trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm, buộc dây vào bốn góc, rồi thả xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớt trôi

Ðoạn mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa giội, xóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:

- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.

Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình, run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.

Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, vì không còn một ý niệm nào về thời gian – sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con thuyền mệt nhọc xang đưa lừ đừ. Và khi một ánh ắng ám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn đầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê liệt các bắt thịt.

Màu trắng sữa liếm dân bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến – dân chài bảo từ Thủy thủ đùn lên - một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo neo sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào rồi neo thuyền cho đứng yên. Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão gió chướng thổi từ phía tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác cài đo được hơn năm mươi sải nước và cho biết là đã bị quạt ra ngoài khơi xa lắm.

Ðột nhiên, không ai bảo ai, tất cả đều im lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kỳ dị, một mùi nhạt và ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen hiện trong sương mù, phía trước mặt; một người đoán;

- Chết, mình trôi đến cồn đá.

Một người khác đáp:

- Nếu là cái cồn đá thì biết liền chú. Ðó là cái thuyền, nhìn kỹ mà coi.

Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền đang lướt trên sóng. Một bác chài bắc loa miệng gọi hỏi:

- Ai đó?

Thuyền bên kia có tiếng đáp:

- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy đó không?

Ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:

- Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ quá. Mà sao họ biết thuyền mình.

Nói xong, ông Phó Nhụy lại cất tiếng hỏi:

- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa gặp bão phải không?

Thuyền bên kia đáp:

- Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.

Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam, sao thuyền lại giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? Ông Phó Nhụy lại hỏi to:

- Sao bên ấy biết?

Bên kia có một câu trả lời kỳ quặc và bí mật:

- Sao lại không biết... A kìa, gió vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên lạch.

Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm, chẳng hiểu sao họ làm nhanh quá chừng và lại không nghe thấy một tiếng động nào. Ông Phó Nhụy trong bụng phân vân, sai kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu vết sự hãi hùng, người ta không muốn rời bỏ bạn đồng hành đã gặp tình cờ.

Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần phật. Sương hạt từng luồng như một cơ mưa trắng. Thuyền đi trước cũng chỉ trông thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ.

Chợt chú trai kêu:

- Có ai như người trôi kìa?

Một bác dùng sào khiều cái vật trôi lềnh bềnh đen thui và nói:

- Ðúng thật là người rồi.

Họ cúi xuống vớt người kia lên. Tay anh ta co quắp còn cắp chặt trong nắch một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng cắn chặt. Một người bảo:

- Hà hơi, hà hơi, hô hấp đi, hình như còn thoi thóp. Từ trên thuyền Xin Kính bên kia, có người hỏi:

- Vớt được ai đó?

Mọi người cúi xuống nhìn kỹ mặt người bị nạn, nhưng không nhận ra ai, mặt anh ta co rút nhăn nhúm đến nỗ đã méo dệch hẳn đi. Chú trai góp ý:

- Hình như giống anh Hoe Chước.

Ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:

- Hoe Chước!

Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ? Hoe Chước đi bạn trên thuyền ông Xin Kính kia mà? Ông hỏi to:

- Có Hoe Chước bên ấy không?

Thuyền bên kia im lặng một cách kỳ lạ. Chú trai, thính tai nhất trong đám, nghe như bên kia đang bàn cãi gì láo nháo. Chú bỗng kêu lên:

- Ơ kìa, đâu mất rồi?

Thuyền ông Xin Kính vừa biến mất như vụt chìm xuống đáy biển. Cả con thuyền lẫn buồm đều biến đâu mất chỉ để lại một khoảng trống không trắng toát, khoảng trắng ấy nhòa dần vào màu sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó Nhụy, mọi người đều câm lặng, tim bóp chặt trong một nỗi lo âu ghê rợn, mở to mắt nhìn trân trân.

Chú trai lúc đó lại kêu:

- Có tiếng gì om om lạ gớm?

Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra quả có tiếng sóng đánh phòm phọp âm âm như vỗ vàng hang hốc. Ngay trước mặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ cách thuyền vài chục thước. Tức thời, ông lái nhảy bổ tới, túm lấy lèo, giằng riết. Chiếc thuyền quạt mũi về bên trái, ngừng một chút rồi tiến theo ngã mới. Các bác chài vội vàng kéo đi tra chèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong sương, rồi biến đi. Ông Phó Nhụy thở phào nhẹ nhõm: thuyền ông vừa suýt đâm phải núi đá.

Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về tới lạch, thì anh Hoe Chước hơi tỉnh. Anh kể lại rằng trong cơn bão, thuyền ông Xin Kính bị sóng đánh dạt vào núi đá vỡ tan tành, và có lẽ chỉ một mình anh là còn sống sót. Anh đã vớ phải cây chèo rồi nhảy xuống biển trước khi thuyền đụng vào núi đá. Những người kia, sau đó, nếu có nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn vì bị sóng quật vào lên đá cũng rã xương.

Vợ của những người trên thuyền ông Xin Kính nay vẫn sống trong cảnh góa bụa. Và cái hy vọng mong manh một ngày trở về của chồng mình nay cũng đã tắt trong họ từ lâu.

Bùi Hiển
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Truyện Huyên Bí Việt Nam-1_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 1 trong tổng số 6
AM CU-LY XE

Mới nghe qua tên am, tôi đã tưởng họ nói đùa. Nhưng không, người kể cho tôi nghe nói với một giọng nghiêm chỉnh lắm.

Cái am ấy nhỏ, được xây bằng chất vôi, nằm trên bờ sông Bồ thuộc về làng Thanh Trúc. Trong am chỉ đặt một bát lư hương và cặp đòn con bằng gỗ tiện. Trước cửa am có che một bức sáo xanh kẻ chữ thọ màu hồng. Cách am năm bước có cái mồ đắp lên khá cao. Ngôi mả của người cu-ly xe.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Chuyện về cái am này ở hai vùng Thanh Lương và Hương Cần ai cũng biết. Hễ có dịp đi qua vùng này ghé vào quán gần bên am thì quý vị sẽ nghe bà quán kể lại. Bà quán kể riết rồi thành có duyên và có nhiều đoạn bà ta nói như đọc thuộc lòng.

Từ ga Văn Xá đến bến đò làng Thanh đi khoảng trên hai cây số. Bên kia sông là huyện Quảng Ðiền. Bến đò ấy nằm vào một chỗ hoang vắng vì bên cạnh con sông là cái cồn mồ. Ở đó qua huyện Quảng Ðiền gần hơn là quay trở về làng Thanh. Dẫn khách đến ga là nhờ con đường chạy dài trong thôn xóm, qua vài cái cầu ngắn xây bằng gạch và ba bốn khoảng phơi mình giữa đồng cỏ cháy. Con đường ấy được nhiều người đi nhất.

Bến Ga Xe Lửa Văn Xá làm lễ lạc khai mạc xong thì sau đó hai tuần một người mù đem chiếc xe tay đến đón khách. Ðó là một cái xe kéo trong thật là thê thảm với hai chiếc bánh xe độn bằng rơm và trần xe bị rách thủng nhiều chỗ.

Khổ hơn nữa là người kéo xe đã mù lại già, đầu tóc bạc phơ, người hơi gầy và trán hói. Ông ta biết được đường xá nhờ đứa cháu nội lên mười chạy dìu theo phía trước. Cứ ngày bốn buổi hai ông cháu lên ga Văn Xá đón khách về huyện Quảng Ðiền. Ðời tuy vất vả nhưng có kẻ thương tình đi xe ông kéo nên cũng đủ sống qua ngày. Lệ thường cứ mỗi chuyến xe được năm xu. Hai ông cháu ngày nào cũng kiếm được một vài hào đủ tiêu dùng và cơm cháo.

Từ ngày có xe lửa, dân mấy vùng quê, ai cũng thèm đi. Họ đi chỉ để mua vui mà thôi. Vì họ thấy chiếc xe sắt này kỳ lạ mà lại chạy nhanh nữa nên họ thích lắm. Họ thích nhất là đứng trên tàu gọi tên mấy người quen đang đi trên đường cái quan. Nhiều khi họ mua vé từ sân ga này đến sân ga kia rồi từ sân ga kia trở về sân ga làng. Thời đó họ còn chưa biết đến sự tiện lợi của sự đi xe. Họ chỉ biết cái thú lên xe lửa để ngắm cảnh và nhìn người qua lại. Nhờ vậy mà ga Văn Xá ngày nào cũng tấp nập người ra kẻ vào. Và hai ông cháu người kéo xe kiếm được miếng ăn rất dễ. Người đi xe lửa khi ra khỏi ga họ muốn lên xe kéo ngay. Họ đã quen với sự nhanh chóng vì đi bộ đối với họ lúc đó là một chuyện phiền phức. Nhưng được một người kéo xe mạnh khỏe thì nói làm gì, đằng này bước chân lên xe người già mù, thì người khổ chưa hẳn là người kéo mà thật ra là người được ngồi. Huống chi đây lại phải chịu cái tội trông một đứa trẻ chạy không kịp thở, ngã tới vờn lui, theo bước chân của một ông già yếu đuối. Nên nhiều người thương hại không muốn đi xe ông kéo.

Nhưng lòng nhân ái càng ban truyền ra thì người mù kéo xe lại càng thêm túng thiếu. Rồi sau này chỉ còn những người ốm hay già yếu, và thỉnh thoảng vài người say rượu, mới bước lên xe ông. Có người thương hại nên chỉ gởi vài bao hành lý để ông kéo rồi trả cho ông vài xu. Nhưng hạng người này hiếm lắm, đợi năm sáu chuyến tàu mới gặp được một người.

Khi màn đêm buông xuống hai ông cháu thường về ngủ trong một cái mui thuyền đặt bên cạnh bờ sông. Sáng sớm ba giờ đã phải dậy, vì phải đợi khách bên huyện Quảng qua sông đi chuyến tàu bốn giờ. Tiền bạc thu được đều do người cháu giữ, và ông cũng ít khi nào hỏi đến, trừ những lúc ông muốn mua một vài cút rượu trắng hay khi nhớ đến những ngày giỗ của gia hương. Ngoài ra, người cháu tuy trẻ tuổi nhưng rất khôn lanh, đã lo liệu đủ điều từ miếng ăn đến cái mặc.

Mùa đông năm Ngọ lạnh và mưa luôn ngày luôn đêm. Con đường từ ga về bến đò đã nhiều nơi bị hê hũng, và nhiều cái cống đất nhỏ bị nước cuốn trôi đi. Hai ông cháu phải bỏ công sức ra làm lại, có thế xe mới đi qua được. Con đường tuy là của chung nhưng chỉ riêng hai ông cháu để ý và lo lắng hơn cả. Xe dạo ấy ế ẩm vô cùng, vã lại gặp cái xe trần thủng, nước tát vào như giội, khách cũng tháy chán không buồn đi. Ðêm nào lên ga đợi chuyến tàu suốt chín giờ, hai ông cháu cũng dẫn xe về không.

Chất chồng vào cái hại kể trên, chuyến đò làng Thanh không qua lại nữa, vì hai làng Thanh Lương và Thanh Trúc đang kiện nhau để được độc quyền về nghề chở khách. Dân quanh vùng phải đi ngược lên khá xa mới qua bến đò làng Triệu. Phía ấy cũng cũng có đường đi lên ga nhưng hẹp lắm. Hai ông cháu đành đưa người đi lại quanh vùng Thanh Trúc và chờ nhà nước xử xong, để chở thêm khách bên huyện Quảng Ðiền.

Một đêm trung tuần tháng chạp, chuyến xe lửa chạy liên tục lại trễ mất ba giờ. Lúc ấy vào giữa đêm, nghe tàu đến hai ông cháu đã mừng thầm trong bụng. Một lát sau, con tàu đã bắt đầu sục sịch chạy, ông kéo xe vẫn chưa nghe thấy có tiếng bước chân nào ra khỏi ga. Ông lên tiếng gọi thằng cháu nhưng thằng bé đã lẫn đi ngã nào. Ông nghĩ rằng có lẽ nó đang đứng đón khách ở bên trong sân ga nên định bụng chờ. Mấy phút sau đứa bé trở về, ông già mù thấy hình như có một người bước lên xe. Ðứa bé nói với một giọng run run:

- Ông ơi có người lên rồi đó. Chạy đi.

Thế rồi hai ông cháu dìu nhau chạy về phía sông Bồ qua những quãng đường lầy lội và dưới dòng mưa đêm lạnh ngắt. Trong những cánh đồng ngập nước, tiếng ễnh ương đua nhau kêu não nùng như một bản nhạc mùa đông, nghe buồn thắm tới tận xương tủy. Hai ông cháu, dưới mấy cái mo cau và tàu lá chuối kết lại thay áo mưa, cắm đầu chạy trên quãng đường ướt át.

Trời thì tối đen như mực, nhưng may đứa cháu quen đường nên không bị lạc và vấp ngã. Hai ông cháu đến bến đò làng Thanh vào khoảng một giờ khuya. Gió ngoài sông thổi vào lạnh như cắt thịt. Ðứa cháu cầm tay định dắt ông vào mui thuyền, nơi ngủ của hai ông cháu, thì dường như nghi hoặc điều gì nên người mù kéo xe cất tiếng hỏi:

- Tiền xe mô đưa cho ông.

Ðây là câu hỏi bất ngờ, vì mấy lần trước có bao giờ ông hỏi đến tiền bạc đâu, nếu có hỏi thì hỏi chỉ để biết bao nhiêu, chứ chưa lúc nào ông lấy tiền giữ. Ðến lúc đó đứa cháu run lẩy bẩy, lúng túng, ngập ngừng rồi bỗng ôm mặt khóc. Chỉ nghĩ thoáng qua người mù kéo xe đã hiểu ra lẽ thật. Vì không có khách, vì muốn ông nó vui lòng nên thằng bé đã bê một tảng đá nặng đặt lên nệm xe và dìu ông nó chạy.

Trí non nớt của nó có ngờ đâu mấy năm lao công khổ nhọc trong nghề, ông nó đã phân biệt rất tinh tường người ngồi hay là vật nặng khác nhau nhiều lắm. Nhưng ông nó vẫn chạy, vì mù quáng, vì đói rách nên lòng vẫn hy vọng những chuyện không bao giờ có được. Và nếu biết được thì càng thêm khổ. Thấy cháu khóc ông ta cũng nức nở khóc theo.

Rồi giữa đêm lạnh phần già yếu, phần buồn đau, phần đói rét, ông gục xuống dần rồi lăn ra chết ngất. Ðứa bé sợ xanh mặt la hét lên nghe như đứt ruột bầm gan nhưng sấm sét của trời mạnh hơn và tiếng của nó đành chịu rã rời bay lạc giữa đêm mưa tầm tã.. Bên kia sông, huyện Quảng Ðiền xa xôi quá, vài ngọn đèn dầu chập chờn trong xóm quê đen tối. Con đò đã cắt đường qua lại từ lâu, không đem được lòng từ thiện của bến bên kia qua bao trùm nỗi thảm thương của bờ nọ.

Sáng hôm sau đi chợ Thanh Lương, khách qua đường thấy trên bờ sông vắng, một đứa trẻ đang ngồi khóc thảm thiết bên cạnh một người già nua đã chết cứng đờ.

Dân quanh xóm thương tình, người ít kẻ nhiều góp lại mua một cái hòm mới và chôn cất người kéo xe già tử tế...

Về sau cứ mỗi đêm, vào khoảng mười một giờ khuya , sau chuyến tàu đi ra Bắc một giờ, những người ở quanh vùng đó đều thấy một cái bóng xe kéo loang loáng chạy về phía làng Thanh Trúc. Những người làm giữa ruộng lúc vào đêm trăng sáng, các em mục đồng và cả sư cụ chùa Linh Hải đều thấy hình bóng một người kéo xe chạy lầm lũi trong màn đêm. Có một đêm khuya mưa lạnh, sư ông ở làng Thanh Trúc còn nghe được cả tiếng xe kéo và bước chân người chạy đều đều ở trước cổng đình làng nữa...

Mọi người quanh vùng bàn tán xôn xao về bóng ma kéo xe vào ban đêm. Cùng lúc ấy, không biết có phải nhờ hồn thiêng của ông mù kéo xe phù hộ mà làng Thanh Trúc được thắng kiện nên thuyền bè được đưa khách qua lại như cũ. Cũng nhân dịp này dân làng liền quyên tiền xây một cái am để tưởng nhớ và thờ cúng ông mù kéo xe. Và người ta đã gọi cái am này là AM CU-LY XE.

Thanh Tịnh
Bài Ký Một Giấc Mộng


Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát. Một hôm gặp mưa to, đóng lại trên bờ hồ Trúc Bạch ở mỏ phượng. Trong cơn mưa u ám, phảng phất có tiếng khóc than thảm thiết. Khi ta truyền mọi người lắng nghe thì không thấy gì, nhưng đến khi gió lớn mưa to thì lại nghe thấy tiếng như trước. Ta ngờ vực, rót chén rượu, hắt ra phía có tiếng khóc, khấn thầm rằng:

- Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất ức, đau khổ, ta có thể giải đi được. Ai có công đức ngầm kín, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa pphương, nếu có u hồn nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bày. Cớ sao gió mưa thì nghe thấy tiếng, lờ mờ không rõ, như khóc như than, nửa ẩn, nửa hiện, trong tình u oán có ý thẹn thùng, làm cho ta sinh lòng nghi hoặc, muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu mà giải. Trẫm không nói lại lần nữa, bảo cho các thần biết.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Khấn xong, ta xem hoa cỏ phía ấy tựa hồ có ý cảm động, khiến ta cũng sinh lòng thương xót. Ta liền sắc cho các tướng truyền quân sĩ chỉnh tề hàng ngũ về cung.

Các tướng hộ giá đều phục đằng trước tâu rằng:

- Từ khi thánh thượng chính ngôi đến nay, dân chúng thảy đều thần phục, há đâu có sự bất ngờ. Nay trời rét như cắt, lại thêm mưa gió lạnh lùng, dù ơn vua rộng khắp, ba quân đều có lòng cắp bông báo ơn chúa (xưa có câu truyện: nước Sở đánh nước Tiêu, trời rét, vua Sở đi khắp ba quân phủ dụ khuyến khích, quân sĩ đều thấy hăng hái, trong mình ấp áp như cắp bông vậy), nhưng đội mưa ra về, dân chúng sẽ nghi là có việc khẩn cấp. Cúi xin đóng tạm ở hành tại, đợi khi mưa tạnh trời quang, truyền mở cửa Tây, chỉ trăm bước là về tới chính cung thôi.

Ta ngượng theo ý chư tướng, hạ lệnh ngủ qua đêm ở đó. Ðêm khuya mộng thấy hai người con gái rất đẹp đội một phong thư, phục xuống trước mặt tâu rằng:

- Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua quý mến. Không may phận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lục bắt trộm, đem đi trốn, định bán chị em thiếp cho người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May nhà vua đi tuần qua đi, có lòng thương xót mọi người, nên chị em thiếp đều liều chết dâng thư, mong đội đức thánh minh soi xét cho. Chị em thiếp nghĩ lúc này chính là lúc được ra ngoài hang tối, thấy bóng mặt trời.

Hai cô nói xong, rồi đặt thư lên án, vừa khóc vừa lạy mà lui ra.

Ta tỉnh giấc, trông lên án, quả có một phong thư. Trong lòng nghi hoặc, vội mở ra xem thì thấy một tờ giấy trắng ngang dọc đều độ một thước, trên có bảy mươi mốt chữ, lối chữ ngoằn ngoèo như hình giun dế, không thể hiểu được. Dước cũng có hai bài thơ:

Bài thứ nhất rằng:

Cổ nguyệt lạc hàn thủy,

Ðiền ôi vị bán âm.

Dạ dạ quân kim trọng,

Thê thê thiên lý lâm.

Tạm dịch là:

Mặt trăng xưa, rơi xuống nước lạnh,

Góc ruộng vì thế mà tối mất một nửa.

Ðêm đêm cân vàng nặng,

Ðau xót lòng ngàn dặm.

Bài thứ hai:

Xuất tự ba sơn sự nhị vương,

Tị lân đầu thượng lưỡng tương phương

Hậu lai giá đắc kim đồng tử,

Không đới đào chi vĩnh tự thương.

Tạm dịch là:

Ra tự núi Ba Sơn thờ hai vua,

Trên đầu liền xóm hai người sánh đôi.

Ðến sau gả cho chàng kim đồng,

Uổng công đội cành đào, cảm thấy đau xót mãi.

Ta nghĩ đi nghĩ lại hai ba lần, nhưng vẫn chưa hiểu ý. Sáng hôm sau ta vào triều, vời học thần nội các đến, thuật rõ việc ấy và đưa hai bài thơ cho mọi người xem để giải nghĩa.

Các họa sĩ đều nói:

- Lời nói của quỷ thần rất huyền bí, không thể giải đoán ngay được. Xin bệ hạ cho phép chúng tôi nghĩ kỹ xem thế nào rồi sẽ xin tâu lại.

Trải qua ba năm, không ai biết hai bài thơ ý nói gì.

Một hôm ta ngủ trưa, mộng thấy người Tiên thổi địch gặp ở hồ Tây khi trước. Ta mừng lắm, mời gã cùng ngồi, cầm tay nói chuyện vui vẻ. Trong mộng lại nhớ đến hai bài thơ kia, đem ra hỏi:

Tiên thổi địch nói:

- Tiên triết ta có câu: “Không thể biết được mới gọi là thần”. Ðem lòng trần dò lòng thần, dò thế nào được? Vậy nên ba năm nay muốn thân oan cho người mà vẫn chưa được.

Tiên thổi địch mới giải nghĩa rằng:

- Hai người con gái ấy là yêu thần của chuông vàng và đàn tỳ bà đó. Khi xưa Lý Cao Tông chế nhạc, đặt tên chuông là Kim Chung, trên đàn là Ngọc tỳ bà. Là chuông, mà có tiếng tơ trúc, là tơ, mà có âm hưởng của kim thạch, cho nên mỗi lần được tấy ở ngự tiền, vẫn được ban thưởng. Nhà vua rất quý, đem cất vào nhạc phủ cẩn thận. Ðến đời Huệ Tông, trễ nải chính trị, ruồng bỏ nhạc công, hàng ngày say sưa hát hỏng, múa giáo tự xưng là tướng nhà trời, ủy cả chính quyền cho nhà Trần. Lúc ấy, một người tôn thất nhà Trần, tên là Lục, thừa cơ lấy trọm hai nhạc cụ ấy. Không ngờ nhạc công là Nguyễn Trực trông thấy, toan đem phát giác. Lục sợ mắc tội, liền đem chôn tại bờ hồ Trúc Bạch, bên trên trồng một cây anh đào cho mất dấu tích đi. Khí vàng và ngọc lâu này thành yêu, nay chúng muốn kêu với vua đào lên để chúng được trổ tài cho nhà vua dùng đó. Trong bài thơ nói: “Cổ nguyệt lạc hàn thủy”, là: bên tả chấm thủy, giữa có chữ “cổ”, bên hữu có chữ “nguyệt” ghép lại thành chữ “bạn”. Cho nên nói: “Ðiền ôi vị bán âm”. Kim, đồng ghép lại là chữ “chung”. Thiên lý ghép lại là chữ “mai”, vì chữ “thổ” ngược lại là chữ “thiên”. Bốn câu này đọc thành bốn chữ là “Hồ bạn chung mai” (nghĩa là Chuông chôn bờ hồ). Còn các chữ khác chẳng qua chắp nhặt cho thành câu thôi. Hai chữ “vương” trên chữ “bà”. Trên đầu chữ “tỷ” với trên đầu chữ “ba” so sánh như nhau, nghĩa là cùng đặt hai chữ “vương” lên trên thì thành chữ “tỳ”. Hai chữ tuy đảo ngược, nhưng cũng hiểu là chữ “tỳ bà”. Gả cho chàng kim đồng: Kim đồng là chữ “chung”. Chắc là “tỳ bà” và “kim chung” cùng đựng vào một vật gì đem chôn đó. Còn câu: “Không đới đào chi vĩnh tự thương”, thì cem bờ hồ nào có cây anh đào, tức là hai thứ ấy chôn ở dưới gốc đó.

Ta lại hỏi âm và nghĩ của 71 chữ ở đầu trang.

Tiên thổi địch nói:

- Những chữ ấy tức là lời tâu của hai con yêu. Lối chữ ấy là lối chữ cổ sơ của Việt Nam. Nay Mường Mán ở các sơn động cũng có người còn đọc được. Nhà vua triệu họ đến, bắt họ đọc thì khắc biết.

Tiên thổi địch nói xong, ta còn muốn nói chuyện nữa. Chợt có cơn gió thoảng qua làm ta tỉnh giấc. Bèn truyền thị vệ theo lời dặn của Tiên thổi địch đi tìm. Quả nhiên đào được một quả chuông vàng và một cây đàn tỳ bà ở bên hồ.

Lê Thánh Tông
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Ai Hát Giữa Rừng Khuya-13_đọc truyện sex hay việt nam

Trang 13 trong tổng số 13

Ðèo Ô Quý Hồ

Trên con đường ghập ghềnh từ Sapa qua Phong Thổ một đoàn khách dừng chân nghỉ giữa con đèo Ô Quý Hồ. Ðoàn hành khách có mười hai người: một người đàn bà và một người con gái bé ngồi ghế đăng sơn, một người con trai cưỡi ngựa, còn bao nhiêu là phu khiêng ghế và tải đồ đạc.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Hỏi ra mới biết người đàn bà đó là bà Tri Châu Phong Thổ, chồng vừa ra đất ấy phóng nhậm được ít lâu nay. Ðứa con gái bé là con bà, người con trai là cháu bà. Ðoàn phu để chiếc ghế đăng sơn ở chỗ có bóng mát, rồi họ tản mác ngồi mỗi người ở một gốc cây để nghỉ chân dưỡng sức. Bà Tri Châu lúc bấy giờ giở tráp trầu ra ăn một miếng, trông bà có vẻ buồn rầu lo lắng, nhưng vẻ lo buồn không làm thế nào át được sắc đẹp dịu dàng sắc sảo của bà. Bà ăn mặc cực kỳ diễm dắn, nề nếp, không đeo lắm vàng ngọc, không đánh phấn thoa son; song càng ngắm bà càng thấy có duyên, càng bị say đắm vì đôi con mắt mơ mộng của bà, đôi mắt đăm đăm nhìn vào quãng chân trời xa thẳm.

Lúc ấy vào khoảng ba giờ chiều. Bóng nắng xê xế, trên đường rừng mát mẻ dễ chịu lắm. Người thiếu nên đi ngựa buộc con vật đỡ chân của chàng vào một góc cây, rồi đi dạo quanh quẩn ngắm nhìn vẻ đẹp lộng lầy tươi thắm của ngàn nội. Tụi phu có vẻ mệt nhọc, vì họ đã tất tưởi cả ngày rồi, ai ai cũng nhân dịp lúc dừng chân mà quạt mồ hôi, và nghỉ ngơi cho lại sức. Họ để các rương hòm rải rác dọc đường, núi, rồi ngồi phanh ngực ra mà quạt, có người thì dựa vào gốc cây, vách đá mà lim dim ngủ, chả ai để ý đến chiếc đăng sơn để ngay sát rìa núi trước mặt bãi sậy rườm rà.

Bỗng đâu, một tiếng la to làm cho mọi người hoảng hốt đứng cả dậy, rồi đến tiếng khóc, rồi đến một lời kêu the thé vang lừng trong rừng sậy đưa ra:

- Cháu Tiêu ơi! Cháu nhớ lấy lời cô đó.

Xong, im bặt. Cả đoàn ùa lại mé đăng sơn. Cô bé con nằm chết ngất, ngẹo đầu dựa vào thành ghế, còn bà Tri Châu thì đã biến đi tự lúc nào rồi. Dưới đất, ngay chỗ đăng sơn, có vết bốn cái vuốt in sâu xuống cát. Ðoàn phu nhận ra đó là dấu chân hổ. Thì ra bà Tri Châu đã bị hổ cắp tha đi.

Bà Tri Châu đó là Oanh Cơ. Ngày nay, theo đúng nghiệp số của nàng, nàng phải theo hai anh chị chết dưới vuốt thiêng của loài mãnh thú. Con hổ này rình nàng từ lâu lắm, nó định bắt nàng đi đã mấy năm nay rồi! Bởi gì chưa có dịp nào nên nó đành phải đợi sau khi bắt hụt nàng một phen ở mé Ðồng Giao. Tra khảo anh chị nàng, nó biết nàng tất phải qua đèo Ô Quý Hồ vì theo chồng ra Phong Thổ. Nó phục trong bụi lau đợi nàng ở đó. Ngày giờ nàng đã đến, số kiếp nàng đã tận, nàng đã bị nó nhảy ra ngặm chặt lấy lôi đi, giữa khi cháu nàng và các phu khiêng đều vô ý mỗi người chăm chú vào việc riêng của mình.

Ðời Oanh Cơ thế là đoạn tuyệt; nàng vừa ra khỏi kịch trường mà nàng đã đóng một vai đào thương hết sức bi ai. Nhưng kỷ niệm của nàng mãi mãi vẫn không bị lu mờ trong lớp bể dâu; hình bóng nàng còn sống trong tâm hồn con nàng và cháu nàng. Trước khi nhắm mắt lìa đời, nàng đã tìm ra được một bí mật: là chồng cũ nàng, Lê Trọng Việt không phải bị các quan tòa lầm lẫn bắt buộc vào tội chết, mà chính là kẻ thù đã thêu dệt đã bịa đặt ra nhiều chuyện để xui giục quan tòa hạ bút phê án tử hình. Kẻ thù ấy, độc địa thay lại là thầy Thông, người đã cùng nàng giá nghĩa sau này. Cậu Lê Trọng Việt chết được hơn một năm, nàng nghe lời đường mật của thầy cùng thầy kết bạn tâm giao. Sau khi về nhà thầy được ba năm thì thầy bổ đi Bắc Cạn, rồi được 2 năm nữa thầy thăng Tri Châu, lên phó nhậm ở Phong Thổ. Trong khi chung chạ, nàng nhận ra thầy Thông là người gian trá xảo quyệt, chỉ có vẻ ngoài niềm nở lịch sự, mà thực tình trong lòng chứa đầy các kế độc, mưu sâu, nàng nhận được rằng thầy là kẻ tham lam bôn tẩu, tìm cách hại nhân thắng kỷ, một là để ăn tiền cho giàu có, hai là để chóng cao thăng. Thầy đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật điêu linh, thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả, lại còn đắc ý là đằng khác. Những giờ phút chăn gối, nàng cố ý gợi lại chuyện chồng cũ, than vãn sao kẻ kia vô tội mà đến nỗi bị quan trên ghép vào tội tử hình. Nghe nàng căn vặn thầy Thông cứ ầm ừ không trả lời; mãi lâu lắm, lâu lắm, một đêm mà trời đất lạnh lùng buồn tẻ, một đêm mà hoàn cảnh như gợi lòng người, thầy Thông mới khe khẽ rỉ tai nàng bằng một giọng trầm trầm, ngần ngại:

- Sở dĩ tôi yêu mợ quá, nên buộc lòng phải làm như thế! Ðáng lý ra, anh em họ Lê không đến nỗi chết, chỉ phải tù tội mà thôi; tôi có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm. Song ngẫm ra đến ái tình là hết, tôi có ý thương mợ, nên mới gây ra tội ác ấy; không thì làm sao có ngày nay?

Từ khi nghe lời thú nhận của thầy Thông. Oanh Cơ coi thầy như con vật dữ, ngoài mặt nàng không lộ ra vẻ gì giận dỗi căm tức cả, nhưng trong lòng nàng chứa chất một khối oán hận tầy đình. Nàng oán thầy khẩu phật tâm xà, làm hại người ngay thẳng để quyến rũ vợ người ta mà vẫn nhởn nhơ vui vẻ, hình như không coi việc ác của mình là một sự xấu xa. Nàng trót đã lấy thầy, không lẽ giết thầy để rửa hận cho người đã thác; vả có giết thầy chăng nữa, cũng không đủ trả thù rửa oán; tội thầy đáng phải hình phạt thế nào cho thầy sống cũng như chết, ăn mất ngon, ngủ mất yên, đêm ngày tâm trí lo sợ, hối hận, hai mắt dở mù dở sáng, để thấy những cảnh mất đầu đổ máu tự tay thầy đã gây nên. Như thế, may ra mới xứng đáng. Nàng muốn tìm kế báo thù như thế, nhưng thời gian thấm thoát, nàng chưa tìm được kế gì. Có lắm lúc mối oán hận trong lòng như sóng nước chơi vơi, trần lên tới cổ, nàng muốn chém thầy ngay, đầu độc thầy ngay, song chợt nghĩ đến đứa con gái còn thơ, nàng lại nén dằn, giả bộ ra vẻ đềm đạm như thường, khiến thầy không nghi ngờ gì hết.

anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị

Ðể biết rõ ngày xưa thầy hành động thế nào, Oanh Cơ lần về Nam Ðịnh, đến tòa xứ, hỏi những người bạn của thầy Thông, nhờ họ cho xem tập hồ sơ của cái án cũ Lê Trọng Việt. Xem tập án ấy nàng mới hay lá đơn khiếu nại thầy đã làm hộ cho mẹ con nàng đại ý như sau:

“Chúng tôi là Bùi Thị Lan, vợ góa của quan nguyên Lãnh binh Lê văn Khúc, và Nguyễn Oan Cơ, nàng dâu thứ hai của vị cựu quan ấy, cúi đầu thành khẩn kính xin các Quan Tòa đèn trời soi xét trông lại cho chúng con nhờ.

Nguyên hai tên Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt tức là con, anh chồng và chồng chúng con, gần đây lại can phạm vào vụ cướp ở Làng Ngọc Chính Hạ. Tên đầu đảng bọn cướp đó là Nguyễn Quán, có rủ rê người nhà chúng con làm việc phạm pháp; người nhà chúng con trót dại giúp đỡ quan phản nghịch, nhưng cúi xin các quan thương cho mà đừng bắt tội, bởi lẽ, nếu hai anh em Khôi và Việt bị tội, thì họ Lê chúng con sẽ tuyệt tự. Khôi và Việt còn mẹ già năm nay đã ngoài 50 lại có vợ dại con thơ, không biết nương tựa vào đâu, tình cảnh thực là bi thiết, cúi xin các quan mở lượng hải hà, hết sức che chở bao dung cho, chúng con sẽ ngậm vành kết cỏ, đội ơn các quan lớn vạn bội.”

Một lá đơn như thế, có bao giờ hai mẹ con nàng Oanh chịu ký tên ở dưới, nếu thầy Thông không đọc trái đi một cách khác, bảo rằng hai cậu ấm Lê không từng vào phe với đảng cướp bao giờ. Cứ theo lá đơn này, thì rõ ràng là, nàng Oanh Cơ và mẹ chồng nàng đã nhận rằng hai cậu ấm có đi ăn cướp thật, và kêu xin quan tòa ra tay tế độ, mở đường hiếu sinh cho. Nàng Oanh xem đến đấy, khí giận bốc lên ngùn ngụt nàng phải rút khăn lau mồ hôi trán đến bốn năm lần. Nàng lại giở xem nữa. Ðến đoạn lấy khẩu cung, của anh em Khôni, Việt mà chính thầy Thông hồi ấy đã dịch cho các quan tòa nghe, như sau này:

“Chúng tôi vì có điều tức giận nên đi theo đảng cướp. Nay đã làm nên tội, chúng tôi không hối hận gì cả!”

Trời ơi! Có lẽ nào anh chồng và chồng nàng lại điên cuồng ngộ dại mà khai như vậy? Thực tình họ có đi theo đảng cướp bao giờ! Con người độc địa sâu cay làm sao! Thế mà ngoài mặt vẫn đạo mạo nghiêm trang, ai nào dám bảo là một kẻ giết người không đao kiếm.

Sau khi ở Nam Ðịnh về Oanh Cơ viện hết lẽ này đến lẽ khác, không hề chung chạ gối chăn với thầy Thông nữa. Cho mãi tới ngày thầy được giấy quan trên cho thăng chức Tri Châu, và bổ đi Phong Thổ. Thầy đi trước, chỉ đem một ít hành lý, dặn nàng ở lại Bắc Cạn rồi đem người nhà và đồ đạc theo sau. Trước khi lên đường, không hiểu tại sao nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn khó tả, tựa hồ báo trước cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ. Rửa mặt, nàng ngửi thấy nước có mùi tanh; ra cửa nàng bị vấp suýt ngã; rồi lại có con chó vàng đến kéo áo như muốn lôi nàng trở lại... Thực là những điềm quái dị vô cùng. Nàng bèn thảo một phong thư di chúc trao cho cháu Nguyễn Tiêu; đoạn, nàng bày tỏ nỗi oán hận của mình cho cháu rõ và bảo chàng rằng:

- Cháu chịu khó giữ lấy thư này cho kín đáo cẩn thận lắm mới được! Khi nào em Quyên (con gái nàng) đýng 18 tuổi, bấy giờ cháu mới kể lại sự tích cha nó thế nào cho nó nghe. Và cháu sẽ bảo nó theo đúng lời cô mà báo thù. Báo thế nào cho kẻ kia phải điêu linh, khổ sở, còn cũng như mất chớ đừng giết hại nó làm gì! Bởi giết nó, tức là gia ân cho nó đấy. Ði chuyến này, cô cảm thấy mệnh số cô hình như sắp hết; cô cháu ta sẽ cùng nhau vĩnh quyết nay mai. Trên đời này, cô không còn ai họ hàng thân thích cả, chỉ có cháu và em Quyên. Cô thường vẫn thương cháu như con, vậy một mai cô có mệnh hệ nào, cháu sẽ nghĩ tình tận lực giúp em cho nó trả được thù ấy. Ðó là cháu đáp nghĩa cho cô đấy!

Nỗi lo ngại của nàng Oanh Cơ quả nhiên thành sự thật. Nàng bỏ con thơ cháu bé ở lại với cuộc đời tàn ác, để một mình lánh sang cõi thế bên kia.

Câu chuyện sự tích nàng Oanh đến đây là dứt.

Từ ngày nàng bị hổ tha vào rừng, thì cứ những đêm mưa gió bấc, những đêm u ám không trăng, trên quãng đèo Ô Quý Hồ lại văng vẳng có giọng đờn ca não ruột, ai bạo gan xông xáo trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho một con cọp lớn ngồi nghe. Quái trạng đó hiện chán ở đèo Quý Hồ thì lại quay về hiện ở Ðồng Giao. Ở đây, cũng như ở kia, chỉ là do một gốc tích mà xảy ra tình trạng ghê rợn ấy. Nàng Oanh thác rồi, 15 năm sau, con gái nàng mới thay nàng báo thù cho cha là Lê Trọng Việt. Câu chuyện báo thù ấy, lại là một vấn đề khác, nó dài dòng lắm, và nó ly kỳ rùng rợn chẳng kém gì câu chuyện của Oanh Cơ. Con người độc nhất vô nhị được rõ nguồn gốc và kết quả sự báo thù ấy là tôi, bởi lẽ tình cờ và duyên số đã khiến tôi đóng một vai thụ động trong tấn kịch thương tâm chua xót ấy. Mà cũng vì có chân trong kịch, nên tâm tôi bị đeo một vết đau đớn thấm thía đến nay quá bốn mươi tuổi rồi, cũng vẫn chưa nguôi... Nhưng mà... Mai kia khi đến Sapa, trong những giờ phút rãnh rỗi tôi sẽ dần dần thuật lại để ông thưởng thức!...

Cụ Trần Công Chất nói đến đây, ngừng lại, tôi nhìn qua cửa sổ trong phòng thấy áng sáng mờ mờ đang xuyên qua luồng kính...

Viết xong tại phố Nghĩa Ðịa Tây, ngày mùng bảy tháng tư năm Canh Thìn, tức là ngày 23-5-1940 âm lịch.

Hết
anh sex
truyện sex hay

phim sex hay
truyện ma kinh dị